
Giá thép tại miền Bắc
Thương hiệu thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.500 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.090 đồng/kg.
Thương hiệu thép Việt Ý, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.640 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 12.880 đồng/kg.
Thép Việt Đức, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.350 đồng/kg, thép thanh vằn D10 CB300 có giá 12.850 đồng/kg.
Thép Việt Sing, với thép cuộn CB240 có giá 13.330 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 ở mức giá 12.930 đồng/kg.
Thép VAS, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.330 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 12.730 đồng/kg.
Giá thép tại miền Trung
Thép Hòa Phát, với dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.500 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 10.090 đồng/kg.
Thép Việt Đức, hiện dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.650 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.050 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.430 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 12.830 đồng/kg.
Giá thép tại miền Nam
Thép Hòa Phát, thép cuộn CB240, ở mức 13.500 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 13.090 đồng/kg.
Thép VAS, dòng thép cuộn CB240 ở mức 13.130 đồng/kg; thép thanh vằn D10 CB300 có giá 12.730 đồng/kg.
Giá thép trên sàn giao dịch
Thép cây trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) giao tháng 7/2026 tăng 6 Nhân dân tệ, lên mức 3.155 Nhân dân tệ/tấn.
Giá quặng sắt kỳ hạn tại Đại Liên kết thúc phiên giao dịch cao hơn sau một phiên giao dịch không có xu hướng rõ rệt, khi kế hoạch ổn định lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc đã lấn át áp lực từ sự sụt giảm sản lượng thép thô toàn cầu.
Hợp đồng quặng sắt tháng 5 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch hàng hóa Đại Liên (DCE) của Trung Quốc tăng 0,26% lên 779,5 Nhân dân tệ/tấn (111,07 USD).
Giá quặng sắt kỳ hạn tháng 1 (SZZFF6) trên sàn giao dịch Singapore giảm 0,11% xuống còn 104,25 USD/tấn.
Trung Quốc cam kết hôm thứ Ba sẽ đẩy mạnh cải tạo đô thị và nỗ lực ổn định thị trường bất động sản vào năm 2026, khởi đầu kế hoạch 5 năm mới nhất (2026 – 2030), nhằm mục tiêu cải thiện nguồn cung nhà ở giá rẻ.
Lĩnh vực bất động sản của Trung Quốc vẫn chịu áp lực kể từ giữa năm 2021, với doanh số bán nhà yếu và giá giảm ảnh hưởng đến niềm tin người tiêu dùng, bất chấp những nỗ lực liên tục của chính phủ nhằm hỗ trợ lĩnh vực này.
Ảnh hưởng đến giá quặng sắt, dữ liệu từ Hiệp hội Thép Thế giới (WSA) công bố hôm thứ Ba cho thấy sản lượng thép thô toàn cầu trong tháng 11 giảm 4,6% so với cùng kỳ năm ngoái, xuống còn 140,1 triệu tấn, trong khi sản lượng thép thô của Trung Quốc – quốc gia sản xuất và tiêu thụ hàng đầu giảm 10,9% xuống còn 69,9 triệu tấn.
Trong khi đó, sản lượng thép thô của Nhật Bản, một trong những nhà sản xuất lớn, dự kiến sẽ giảm 1,7% trong ba tháng đầu năm 2026 do nhu cầu yếu từ ngành xây dựng và sản xuất.
Điều này sẽ khiến sản lượng hàng năm của nước này trong năm tài chính kết thúc vào ngày 31/3 giảm 3,2%, mức thấp nhất kể từ năm tài chính 1968.
Các nhà sản xuất thép lò cao của Trung Quốc đã giảm lượng mua nguyên liệu đầu vào trong tuần trước, chỉ mua đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất trước mắt nhằm tránh thua lỗ, công ty tư vấn Mysteel cho biết trong một báo cáo.
Các nguyên liệu sản xuất thép khác trên sàn giao dịch DCE đóng cửa ở mức cao hơn, với than cốc và than luyện cốc (DCJcv1) tăng lần lượt 0,62% và 0,2%.
Hầu hết các chỉ số thép chuẩn trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải đều tăng. Thép cuộn cán nóng tăng 0,09%, thép dây (SWRcv1) tăng 0,78%, thép không gỉ tăng 1,4% và thép thanh cốt thép tăng 0,06%.
Hà Trần (T/h)























