Nhiều tiềm năng phát triển nuôi trồng thủy sản
Việt Nam có diện tích mặt nước lớn, kể cả nước ngọt, lợ và mặn, đây là một lợi thế cho việc phát triển nuôi trồng thủy sản và cũng là một trong những lý do dẫn tới sự thành công của ngành trong thời gian qua.
Theo Tổng cục Thống kê, diện tích nuôi trồng thủy sản tăng dần qua các năm từ 1.071,4 nghìn ha năm 2016 lên 1.118,0 nghìn ha năm 2018, năm 2019 diện tích đạt 1.138,0 nghìn ha (tăng 1,8%). Tuy nhiên, do ảnh hưởng từ dịch Covid-19, diện tích nuôi trồng giảm qua các năm 2020- 2023. Năm 2023, diện tích nuôi trồng thủy sản đạt 1.061,3 nghìn ha, giảm 2,7% so với năm 2019. Nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh mẽ khắp các vùng trong cả nước, kể cả các tỉnh Tây Nguyên, miền núi phía Bắc… trên cả 3 loại hình nước ngọt, nước lợ và nước mặn và đang vươn ra biển. Điều đó chứng tỏ trong suốt thời gian qua, nước ta đã có những chính sách, biện pháp quy hoạch đất, từng bước chuyển đổi vùng trũng, vùng trồng lúa, vùng trồng cói, các cây công nghiệp năng suất thấp, làm muối kém hiệu quả sang nuôi trồng thủy sản.

Sản lượng nuôi trồng thủy sản đã tăng trưởng đáng kể nhờ áp dụng các mô hình nuôi trồng thủy sản cho năng suất và chất lượng cao, tổng sản lượng thủy sản giai đoạn 2016-2024 đạt 36,8 triệu tấn, trong đó năm 2024 đạt mức cao nhất với 5,7 triệu tấn, tăng 56,3% so với năm 2016, bình quân mỗi năm tăng 5,1%. Năm 2024, sản lượng thủy sản nuôi trồng ước đạt 5.721,6 nghìn tấn, tăng 4,0% so với năm trước, trong đó: Cá đạt 3.826,6 nghìn tấn, tăng 3,9%; tôm đạt 1.246,5 nghìn tấn, tăng 5,6%; thủy sản khác đạt 648,5 nghìn tấn, tăng 1,4%.
Cá và tôm là hai đối tượng nuôi được chú trọng phát triển nhất ở Việt Nam, vì thế sản lượng nuôi hàng năm của cá và tôm là tương đối cao, nhất là cá luôn được ưu chuộng tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu hơn tôm. Hiện nay, các loại cá được nuôi phổ biến đó là cá tra, cá basa. Nhiều doanh nghiệp nuôi tôm lại chuyển đổi phần lớn diện tích nuôi tôm sú sang nuôi tôm thẻ chân trắng. Bởi trên thương trường hiện nay, con tôm sú đang bị tôm thẻ chân trắng cạnh tranh quyết liệt, do tôm thẻ chân trắng dễ nuôi và có năng suất cao gấp hai lần so với tôm sú, nên giá thành sản xuất hạ, được người tiêu dùng ưa chuộng.
Cơ cấu sản xuất đang được chuyển mạnh từ nuôi cá sang nuôi tôm. Kỹ thuật và công nghệ nuôi tôm nước lợ chuyển dần theo hướng ứng dụng công nghệ mới, nuôi tôm công nghiệp và bán công nghiệp quy mô lớn. Ðáng chú ý, những năm gần đây, hình thức nuôi tôm sú công nghiệp theo chu trình khép kín, ít thay nước đã được áp dụng ở nhiều tỉnh ven biển miền Trung, cho hiệu quả kinh tế cao.
Hiện nay, các mô hình nuôi trồng thủy sản ứng dụng công nghệ cao đang được áp dụng khá rộng rãi nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, nâng cao thu nhập và góp phần hạn chế ô nhiễm môi trường… Các mô hình phổ biến là Công nghệ Biofloc - một trong những công nghệ cao được ứng dụng phổ biến trong nuôi trồng thủy sản hiện nay để tạo môi trường nuôi giàu dinh dưỡng: Kích thích phát triển các vi sinh vật có lợi trong nước để tạo ra các hạt biofloc giàu protein, lipid và các hợp chất hữu cơ thiết yếu, là nguồn thức ăn tự nhiên cho tôm, cá; công nghệ nuôi thâm canh áp dụng mật độ nuôi cao, sử dụng hệ thống sục khí, lọc nước tự động để nâng cao năng suất; Công nghệ tuần hoàn, khép kín sử dụng hệ thống lọc, tuần hoàn nước, bổ sung oxy và dinh dưỡng để nuôi trong bể, ao khép kín. Từ đó giúp tiết kiệm nước, đảm bảo vệ sinh và năng suất ca; Công nghệ cảm biến, IoT giám sát các thông số môi trường như oxy, độ mặn, nhiệt độ từ xa qua thiết bị cảm biến và ứng dụng, công nghệ này đang được ứng dụng rộng rãi trong nuôi trồng thủy sản, mang lại nhiều lợi ích; Nuôi trồng thủy sản theo hướng VietGAP, GlobalGAP là áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn, vệ sinh, truy xuất nguồn gốc để nâng cao chất lượng sản phẩm. kháng bệnh tốt.
Các mô hình nói trên có ưu điểm đó là ứng dụng các công nghệ nuôi tiên tiến, tự động hóa và điều khiển quá trình nuôi bằng hệ thống máy móc, trang thiết bị và công nghệ thông tin; kiểm soát các yếu tố môi trường nuôi (nước, không khí, ánh sáng…) ở mức tối ưu cho sự sinh trưởng và phát triển của thủy sản; áp dụng các biện pháp kỹ thuật tiên tiến để phòng trừ dịch bệnh, đảm bảo an toàn sinh học; đáp ứng đầy đủ các tiêu chuẩn quốc tế về an toàn thực phẩm và truy xuất nguồn gốc.
Giải pháp phát triển thủy sản bền vững
Ngành thủy sản ở Việt Nam có sự tăng trưởng thời gian qua, tuy đã có chú ý phát triển theo chiều sâu, nhưng chưa đồng đều ở các địa phương, vùng lãnh thổ. Sự phát triển chủ yếu theo chiều rộng qua việc tăng diện tích nuôi trồng chứ chưa thực sự được chú trọng thúc đẩy phát triển theo chiều sâu nhằm giữ vững và ổn định tốc độ tăng trưởng, tăng mức độ đóng góp của ngành vào GDP.
Còn tồn tại thực trạng đó là do những nguyên nhân sau: Việc xây dựng quy hoạch còn chậm, chưa theo kịp với nhu cầu phát triển, khả năng ứng dụng sáng tạo tiến bộ khoa học vào điều kiện cụ thể của từng vùng còn yếu kém, tuy có nhiều tiến bộ trong phương thức sản xuất và kỹ thuật nuôi, nhưng vẫn chưa theo kịp trình độ của các nước có ưu thế về nuôi thủy sản ở khu vực và thế giới, đầu tư còn dàn trải, chưa đồng bộ, công tác quản lý còn nhiều bất cập…
Khai thác phải đi đôi với công tác phục hồi và bảo vệ nguồn lợi thủy sản. Định hướng phát triển bền vững trong tương lai là giảm dần sản lượng thủy sản khai thác, phát triển thủy sản nuôi trồng theo hướng áp dụng các mô hình nuôi trồng chất lượng cao, đạt an toàn thực phẩm và môi trường.
Để phát triển thủy sản bền vững trong giai đoạn tới, cần tái cơ cấu ngành thủy sản gắn với điều kiện phát triển thủy sản của từng vùng, từng địa phương, thích ứng với biến đổi khí hậu và tổ chức lại sản xuất theo chuỗi giá trị từ khâu sản xuất, cung cấp nguyên liệu đầu vào đến nuôi trồng, khai thác, chế biến, bảo quản và tiêu thụ. Mục đích nhằm giảm chi phí, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm thủy sản Việt Nam, gắn với bảo vệ nguồn lợi thủy sản, bảo vệ môi trường.

Chuyển mạnh sang nuôi trồng biển nhằm thúc đẩy tăng trưởng thủy sản, chuyển dịch cơ cấu lao động từ đánh bắt sang nuôi trồng, giải quyết nhiều việc làm, nâng cao đời sống cho người dân. Chuyển từ nuôi trồng, khai thác theo phương thức truyền thống sang công nghiệp hóa ngành thủy sản, ứng dụng công nghệ cao.
Tổ chức lại hoạt động khai thác, đẩy mạnh nuôi trồng, hiện đại hoá quản lý, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ. Phát triển các mô hình nuôi kết hợp, xen ghép nhiều đối tượng, nuôi luân canh, nuôi các đối tượng mới nhằm hạn chế dịch bệnh, giảm chi phí đầu tư, tăng hiệu quả sản xuất, góp phần cải tạo hệ sinh thái vùng nuôi.
Tăng cường kiểm soát dịch bệnh và cải thiện chất lượng giống, áp dụng các giải pháp kỹ thuật mới trong sản xuất, ương dưỡng giống, hạn chế sử dụng thuốc, kháng sinh, các chất vi sinh dùng trong nuôi trồng thủy sản để xây dựng và thực hành rộng rãi tiêu chuẩn nuôi sạch bệnh.
Minh Anh
























