Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, đầu tư nước ngoài (ĐTNN) vào Việt Nam cũng phát triển một cách nhanh chóng cả về số lượng, quy mô vốn và chất lượng dự án. ĐTNN trong những năm qua đã góp phần tạo việc làm, thu nhập cho người lao động; nâng cao trình độ, năng lực sản xuất; tăng thu ngân sách nhà nước, ổn định kinh tế vĩ mô; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới mô hình tăng trưởng; nâng cao vị thế và uy tín Việt Nam trên trường quốc tế.

Ảnh minh họaẢnh minh họa

Vừa qua, Việt Nam đã tiến hành tổng kết 30 năm thu hút ĐTNN và trên cơ sở đó Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Trong thời gian qua, tình hình quốc tế có nhiều thay đổi với sự phát triển nhanh của các hiệp định bảo hộ đầu tư, cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế đa dạng và hệ quả là sự gia tăng các tranh chấp đầu tư quốc tế.

Cộng đồng quốc tế cũng có những lo ngại về những sự phát triển này và có những phản ứng khác nhau, kể cả cải tổ các cơ chế giải quyết tranh chấp đầu tư quốc tế.

Do vậy, tăng cường công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài trong tình hình mới và phòng ngừa, giảm thiểu các tranh chấp đầu tư quốc tế luôn là ưu tiên hàng đầu của Chính phủ các nước. Tuy nhiên, công tác quản lý hoạt động đầu tư nước ngoài còn một số tồn tại, bất cập như: Công tác phối hợp, trao đổi thông tin, quy hoạch trong xây dựng chính sách, pháp luật về ĐTNN, quản lý ĐTNN giữa các bộ, ngành và địa phương còn nhiều hạn chế, chưa bảo đảm hiệu lực, hiệu quả; năng lực của cán bộ quản lý nhà nước về đầu tư ở địa phương chưa đáp ứng được yêu cầu thực tế; công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo của nhà đầu tư nước ngoài còn có lúc, có nơi chưa đúng quy định pháp luật, chưa tận dụng tốt giai đoạn này để giải quyết dứt điểm khiếu nại, vướng mắc của nhà ĐTNN, còn có tình trạng khiếu nại vượt cấp của nhà đầu tư nước ngoài...; hệ thống pháp luật đầu tư và pháp luật chuyên ngành còn thiếu thống nhất; công tác kiểm tra, giám sát và phát hiện các vi phạm pháp luật trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại địa phương chưa thực sự hiệu quả.

Đồng thời, công tác phòng ngừa tranh chấp đầu tư quốc tế tại Việt Nam hiện vẫn chưa được chú trọng đúng mức, cụ thể như: Nhận thức của các cơ quan nhà nước, chính quyền địa phương các cấp về tầm quan trọng của công tác này chưa tương xứng; chưa có cơ chế phối hợp trong phòng ngừa tranh chấp đầu tư quốc tế; hiểu biết của đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác quản lý nhà nước đối với các cam kết quốc tế về đầu tư và đề xuất, đàm phán các dự án đầu tư của Việt Nam còn hạn chế; nhiều địa phương còn chưa chú trọng công tác lựa chọn, sàng lọc nhà đầu tư. Thời gian qua, Đảng và Nhà nước đã ban hành các văn bản định hướng, hoàn thiện thể chế liên quan đến đầu tư nước ngoài quan trọng, trong đó có Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030 và Nghị quyết số 58/NQ-CP ngày 27/4/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động của Chính phủ thực hiện Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 của Bộ Chính trị.

Bên cạnh các giải pháp, nhiệm vụ được chỉ ra tại các Nghị quyết này, để nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý nhà nước về đầu tư (trong đó có công tác giải quyết khiếu nại tố cáo của nhà đầu tư nước ngoài) và phòng ngừa tranh chấp đầu tư quốc tế, Thủ tướng Chính phủ chỉ thị: Về tăng cường công tác quản lý nhà nước về đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư chủ trì, phối hợp với các bộ, ngành và địa phương, hàng năm rà soát, đánh giá việc đàm phán, ký và thực hiện các điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế của Việt Nam về đầu tư; đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện, sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hiệu lực của các điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế về đầu tư không còn phù hợp với Việt Nam; xử lý kịp thời các vướng mắc, khó khăn, đặc biệt là các nguyên nhân cản trở việc thực hiện các điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế về đầu tư.

Bên cạnh đó, khẩn trương tập hợp, sắp xếp, bảo quản và lưu giữ đầy đủ hồ sơ đàm phán các điều ước quốc tế và thỏa thuận quốc tế của Việt Nam về đầu tư phục vụ cho việc giải thích, áp dụng các quy định liên quan; nghiên cứu xây dựng điều ước quốc tế mẫu về đầu tư của Việt Nam; định kỳ hai năm tiến hành rà soát, đánh giá tính tương thích của pháp luật Việt Nam với các điều ước quốc tế về đầu tư để có đề xuất, kiến nghị phù hợp; hàng năm rà soát, đánh giá pháp luật Việt Nam về đầu tư; phát hiện và đề xuất xử lý các quy định pháp luật mâu thuẫn, chồng chéo, hết hiệu lực hoặc không còn phù hợp; nghiên cứu, đề xuất thiết lập đầu mối tiếp nhận, giải quyết các vướng mắc, khó khăn của nhà đầu tư; đẩy mạnh công tác thanh tra, kiểm tra và xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.

Hoan Nguyễn