Chiều nay, trong cuộc họp báo về tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh tháng 9, và 9 tháng đầu năm 2018, Chánh Văn phòng UBND TP.HCM Võ Văn Hoan cho biết, TP đang xử lý, chỉ đạo xử lý, khắc phục những sai phạm của SAGRI.
Tại cuộc họp báo, trước câu hỏi của báo chí về những sai phạm của SAGRI được Kiểm toán Nhà nước chỉ ra, Chánh Văn phòng UBND TP.HCM kiêm người phát ngôn của UBND TP Võ Văn Hoan nói, SAGRI có 2 sai phạm lớn trong quản lý đất đai và điều hành.
Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn
Theo đó, sai phạm đã xảy ra ở 2 nhiệm kỳ trước đây, còn quản lý điều hành tổng công ty trách nhiệm thuộc về tổng giám đốc. "Sai phạm trong điều hành đúng như báo chí đã nêu, đơn vị đã khắc phục. TP đã kiểm điểm tổng giám đốc. Hội đồng kỷ luật đã đưa ra hình thức kỷ luật khiển trách" – ông Hoan nói.
Tuy nhiên, theo ông Hoan, UBND TP nhận thấy mức xử lý kỷ luật đó chưa đúng, chưa chính xác với mức sai phạm của ông Lê Tấn Hùng (Tổng giám đốc SAGRI ) nên UBND TP có chỉ đạo thành lập lại hội đồng kỷ luật mới để xem xét lại hình thức kỷ luật. Hiện đang chờ hội đồng kỷ luật mới xem xét, khi nào có kết quả, UBND TP sẽ thông báo.
Ông Hoan cho hay, Kiểm toán Nhà nước đã chỉ ra 3 sai phạm: Cho thuê đất, hợp tác đầu tư chưa có ý kiến của cơ quan có thẩm quyền, đầu tư kinh doanh trên đất ngoài ngành. Sau khi tiếp nhận thông báo của Kiểm toán Nhà nước, TP đã chỉ đạo tổ chức kiểm điểm, chỉ đạo Thanh tra TP xem xét báo cáo của Kiểm toán Nhà nước để tiếp tục nghiên cứu làm rõ thêm những sai phạm mà Kiểm toán Nhà nước chỉ ra.
Ngoài ra, TP cũng yêu cầu Tổng giám đốc SAGRI dưới sự điều hành của Sở Nội vụ tổ chức kiểm điểm các cá nhân, tổ chức có liên quan; từ đó có báo cáo đề xuất hướng xử lý cho UBND TP.
Trước đó, Tổng Kiểm toán Nhà nước đã thông báo kết quả kiểm toán tài chính, chỉ ra nhiều sai phạm trong hoạt động liên quan đến quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước năm 2017 của Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn.
Cụ thể, trong công tác quản lý sử dụng đất Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn và Công ty TNHH Một thành viên Xuất nhập khẩu Nông lâm hải sản đã ký 10 hợp đồng góp vốn thành lập pháp nhân mới để hợp tác đầu tư trên 24 khu đất có 1.900 ha.
Trong số này, Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn đã bàn giao 140 ha của Công ty TNHH MTV Bò sữa TP.HCM cho Công ty TNHH Nông nghiệp Trung Thủy Sagri và giao 450 ha cho Công ty TNHH Nông nghiệp Vineco Sagri khi chưa có văn bản chấp thuận, quyết định thu hồi và giao đất của UBND TP.HCM.
Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn cũng ký 6 hợp đồng hợp tác theo phương thức, việc tổ chức kinh doanh trên khu đất do đối tác toàn quyền quyết định không đúng quy định của thành phố đã phê duyệt.
Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn cũng ký 7 hợp đồng với 4 đơn vị để hợp tác kinh doanh trên 7 cơ sở nhà đất có tổng diện tích 114 ha. Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn cũng ký 8 hợp đồng hợp tác có ngành nghề kinh doanh bất động sản - là lĩnh vực thuộc ngành nghề phải thoái vốn theo quy định của Chính phủ.
Ngoài ra, hợp đồng hợp tác dự án Cụm công nghiệp Láng Le-Bàu Cò, tuy không có văn bản chấp thuận chủ trương của TP.HCM.
Từ những vi phạm trên, cuối năm 2017, Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn đã đầu tư vốn vào 25 doanh nghiệp với giá trị ghi sổ kế toán là hơn 1.000 tỷ đồng. Trong số này có 5 công ty con, 11 công ty liên kết và 9 doanh nghiệp khác. Tuy nhiên, 9 trong số 25 doanh nghiệp kinh doanh lỗ, 10 đơn vị lỗ lũy kế đến cuối năm 2017 là hơn 380 tỷ đồng.
Cơ quan kiểm toán cũng đánh giá, với khoản đầu tư trên, lẽ ra tổng công ty phải trích dự phòng theo quy định hơn 100 tỷ đồng nhưng Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn đã không thực hiện.
Về công tác quản lý tài chính, Tổng công ty đã ký 3 hợp đồng vay ngoại tệ và một hợp đồng vay VND để bổ sung vốn lưu động nhưng lại đem số tiền vay được đi gửi có kỳ hạn tại ngân hàng khác, không đúng mục đích vay và lỗ hơn 12 tỷ đồng do chênh lệch tỷ giá.
Trước đó, hồi tháng 5, Chủ tịch UBND TP.HCM Nguyễn Thành Phong vừa ra quyết định kỷ luật, hình thức khiển trách với ông Lê Tấn Hùng - thành viên không chuyên trách Hội đồng thành viên của Tổng công ty Nông nghiệp Sài Gòn - bị cho là vi phạm về nguyên tắc kế toán, được quy định tại khoản 4 Điều 6 - Luật Kế toán năm 2003.
Hải Đăng