Trong số các thị trường tiêu thụ, Trung Quốc và Hồng Kông tiếp tục là điểm sáng với kim ngạch nhập khẩu gần 595 triệu USD, tăng tới 81% so với cùng kỳ. Sự phục hồi tiêu dùng sau đại dịch, nhu cầu cao vào mùa hè và lượng tiêu thụ tôm hùm tăng mạnh là những yếu tố giúp Trung Quốc trở thành thị trường tăng trưởng đột phá nhất.

Khối thị trường CPTPP cũng ghi nhận mức tăng 38%, trong đó Nhật Bản tăng 19%, Australia tăng 5% và Canada tăng 6%. Nhật Bản giữ vững vai trò là thị trường đơn lẻ lớn thứ ba, nhờ nhu cầu ổn định và ưu thế từ các sản phẩm tôm giá trị gia tăng.

, VASEP dự báo tốc độ tăng trưởng tôm có thể chững lại do ảnh hưởng của chính sách thuế từ Mỹ và đơn hàng đã được đẩy sớm trong các tháng trước.
, VASEP dự báo tốc độ tăng trưởng tôm có thể chững lại do ảnh hưởng của chính sách thuế từ Mỹ và đơn hàng đã được đẩy sớm trong các tháng trước. (Ảnh: internet)

Xuất khẩu sang EU tăng 16%, hưởng lợi từ Hiệp định EVFTA. Các thị trường như Đức, Bỉ và Pháp đều ghi nhận mức tăng hai con số, trong bối cảnh các đối thủ như Thái Lan, Indonesia không có lợi thế thuế quan tương tự.

Tại Đông Á, Hàn Quốc tăng trưởng 14%, trong khi Đài Loan (Trung Quốc) tăng 27% – cho thấy sức lan tỏa tích cực của tôm Việt Nam tại khu vực này.

Dù xuất khẩu tôm sang Mỹ đạt 341 triệu USD trong nửa đầu năm (tăng 13%), nhưng xu hướng đang có dấu hiệu đảo chiều. Sau khi tăng mạnh 66% trong tháng 5 nhờ doanh nghiệp tranh thủ xuất hàng trước thời điểm bị áp thuế, kim ngạch tháng 6 đã giảm 37%. VASEP cảnh báo tháng 7 có thể tiếp tục ghi nhận sự chững lại, do phần lớn đơn hàng “tránh thuế” đã hoàn tất từ trước.

Việc Mỹ tạm hoãn áp dụng mức thuế chống bán phá giá (AD), chống trợ cấp (CVD) và thuế đối ứng đến ngày 1/8 mang lại cơ hội ngắn hạn cho một số doanh nghiệp, song tâm lý thị trường vẫn thận trọng.

Trước những biến động khó lường, VASEP khuyến nghị doanh nghiệp tôm cần đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường, giảm phụ thuộc vào Mỹ, đồng thời tận dụng triệt để ưu đãi từ các hiệp định thương mại như EVFTA, CPTPP.

Cùng với đó, đầu tư vào sản phẩm chế biến sâu, thực phẩm tiện lợi, “ready-to-eat” sẽ giúp tăng giá trị gia tăng và đáp ứng thị hiếu tiêu dùng hiện đại. Việc đảm bảo truy xuất nguồn gốc minh bạch, phòng ngừa rủi ro gian lận thương mại cũng được xem là yếu tố bắt buộc.

Ngoài ra, việc ứng dụng công nghệ và chuyển đổi số toàn chuỗi sản xuất – xuất khẩu, kết hợp với kiểm soát vùng nuôi đạt chuẩn và chi phí đầu vào sẽ giúp doanh nghiệp giữ vững biên lợi nhuận trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gia tăng. Chuẩn bị kỹ lưỡng về tài chính và pháp lý sẽ là tấm khiên quan trọng giúp doanh nghiệp Việt Nam ứng phó hiệu quả với các chính sách thương mại thay đổi từ các thị trường lớn.

L.T (t/h)