Việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương – 981 trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam là một toan tính kỹ lưỡng. Đây là một việc làm để thực hiện chiến lược độc chiếm biển Đông của Trung Quốc, từng bước thực hiện hóa chủ quyền phi lý của họ ở Biển Đông.
Trong thời gian vừa qua, Trung Quốc đồng thời có ba hành vi:
Thứ nhất là hạ đặt giàn khoan Hải Dương – 981 vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, không được sự đồng ý của Chính phủ Việt Nam, nghĩa là vi phạm Công ước LHQ về Luật Biển Năm 1982 (UNCLOS 1982), vi phạm tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) năm 2002, vi phạm ba tuyên bố chung giữa lãnh đạo cấp cao hai nước. Việc làm này cho thấy Trung Quốc vi phạm luật pháp quốc tế.
Thứ hai, cùng với việc vi phạm luật pháp quốc tế, vi phạm quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt Nam ở Biển Đông, Trung Quốc còn có hành vi hung hăng, đe dọa và trực tiếp dùng vũ lực, như cho tàu công suất lớn đâm thẳng vào tàu cảnh sát biển, tàu kiểm ngư và tàu cá của Việt Nam; vi phạm nguyên tắc căn bản nhất trong luật pháp quốc tế hiện đại, mà điều thứ hai trong Hiến chương LHQ quy định tất cả các thành viên LHQ phải giải quyết chanh chấp bằng con đường hòa bình trên cơ sở luật pháp quốc tế, cấm đe dọa dùng vũ lực và sử dụng vũ lực. Việc cấm đe dọa dùng vũ lực và cấm sử dụng vũ lực là xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống luật pháp hiện đại.
Như Trung Quốc đã sử dụng các hành động vũ lực, bộc lộ bản chất hung hăng và thậm chí là độc ác (đâm chìm tàu cá Việt Nam). Trung Quốc đã nhiều lần gây hấn với Việt Nam, nhưng lần này bị cả cộng đông quốc tế, từ Mỹ, châu Âu, Nhật Bản, Ấn Độ … phản đối quyết liệt.
Thứ ba là hành vi lừa dối. Trong một cuộc họp báo tại Bắc Kinh, Người phát ngôn Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hoa Xuân Oánh nói rằng: “giàn khoan Trung Quốc đang tác nghiệp trong vùng đặc quyền kinh tế của Trung Quốc”, cho rằng tàu Việt Nam vào “quấy nhiễu”. Đây là sự lừa dối trắng trợn đối với không chỉ người dân Trung Quốc, mà còn đối tất cả nhân dân thế giới.
Ba hành vi này đồng thời diễn ra chứng tỏ rằng Trung Quốc rốt cuộc “ nói một đàng làm một nẻo”. Họ không “trỗi dậy hòa bình” như từng tuyên bố mà đang coi thường luật pháp quốc tế. Họ chủ động dùng áp lực,sử dụng lực lượng lớn áp đảo các nước láng giềng để phân chia lại hiện trạng khu vực và thế giới.
Việc hạ đặt giàn khoan Hải Dương – 981 ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam không phải là việc làm bột phát, mà được chuẩn bị từ lâu. Cách đây mười năm, Trung Quốc đã có chiến lược biển, trong đó có phần không phổ biến ra thế giới, là từng bước một hiện thực hóa cái gọi là “chủ quyền đường lưỡi bò”( chiếm 75% diện tích mặt nước Biển Đông). Đây là điều phi lý. Lãnh đạo hay các nhà khoa học Trung Quốc căn cứ vào đâu để đưa ra việc này? Có thể thấy, đây là một hành động được tính toán từ trước nằm trong một chiến lược dài hạn để từng bước thực hiện hóa chủ quyền phi lý của Trung Quốc với Biển Đông.
Việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam chủ yếu vì mục đích an ninh, chính trị. Ngay địa điểm Trung Quốc đặt giàn khoan Hải Dương – 981, không có giếng dầu hay vỉa dầu lớn. Vì thế việc đưa giàn khoan vào nơi này là nhằm khẳng định chủ quyền phi lý của Trung Quốc chứ không phải là tìm kiếm dầu.
Điều 2 Hiến chương LHQ quy định việc giải quyết căng thẳng bằng biện pháp hòa bình dựa trên cơ sở luật pháp quốc tế là yêu cầu bắt buộc đối với mọi quốc gia thành viên LHQ, cấm các quốc gia đe dọa và sử dụng vũ lực để giải quyết. Việc cấm dùng vũ lực là xuyên suốt trong mọi luật pháp quốc tế, kể cả UNCLOS 1982, DOC và ba tuyên bố chung Việt Nam – Trung Quốc gần đây là tuyên bố không sử dụng vũ lực. Tuy nhiên, Trung Quốc, dù là ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an LHQ, vẫn bất chấp luật pháp quốc tế.
Trước vụ việc lần này, phản ứng của Nhà nước Việt Nam rất rõ ràng và kiên quyết. Trong các phát biểu tại Myanmar và Philippines, Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng nhấn mạnh rằng, hành động của Trung Quốc cực kỳ nguy hiểm, đã và đang làm đe dọa trực tiếp đến ổn định an toàn, an ninh hàng hải trong khu vực. Thủ tướng khẳng định Việt Nam kiên quyết bảo vệ chủ quyền và lợi ích chính đáng của mình, bởi vì chủ quyền lãnh thổ, chủ quyền biển đảo là thiêng liêng. Việt Nam mong muốn hữu nghị, hòa bình nhưng phải trên cơ sở bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ vùng biển. Và nhất là không đánh đổi điều thiêng liêng này lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông.
Phản ứng trước hành vi gây hấn của Trung Quốc, Nhà nước cũng có tuyên bố rõ ràng, tạo sự đồng thuận trong xã hội, củng cố lòng tin của người dân đối với Đảng và Nhà nước. Chính thái độ rõ ràng, mạch lạc, kiên quyết như vậy nên cộng đồng quốc tế đã thực hiện sự ủng hộ đối với Việt Nam.
Về những căng thẳng liên quan vấn đề lãnh thổ, lãnh hải, trong phạm vi quốc tế, thông thường có bốn phương thức, gồm: trao đổi song phương, đàm phán trên cơ sở luật pháp quốc tế; dùng bên thứ ba làm trung gian hòa giải; đưa ra tòa án quốc tế phân xử; cuối cùng là giải pháp quân sự. Tuy nhiên, bất kỳ quốc gia nào đều cố gắng tránh giải pháp cuối cùng, bởi đó là hạ sách. Trong vấn để Biển Đông, nhiều năm qua, Việt Nam kiên trì phương thức đối thoại hòa Bình. Đây là đường lối đúng đắn, phù hợp xu thế hòa bình, ổn định, hợp tác phát triển, phù hợp lịch sử phát triển của hai dân tộc Trung Quốc và Việt Nam.
Theo Thời nay

Việc Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương – 981 trong thềm lục



















