Về quy mô đầu tư, Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) Nguyễn Văn Thể thông tin: Dự án đường cao tốc Biên Hòa - Vũng Tàu dài 53,7 km qua 2 tỉnh, kết nối thành phố Biên Hòa với cảng biển Cái Mép - Thị Vải; đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 04 - 06 làn xe.
Còn dự án đường cao tốc Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột dài 117,5 km qua 02 tỉnh, kết nối thành phố Buôn Ma Thuột với cảng biển Nam Vân Phong; đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 04 làn xe.
Đối với dự án đường cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng có dài 188,2 km qua 04 tỉnh/thành phố, kết nối thành phố Châu Đốc với cảng biển Trần Đề; đầu tư giai đoạn 1 với quy mô 04 làn xe.
Về hình thức đầu tư, theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể, dự án Biên Hòa - Vũng Tàu được Chính phủ kiến nghị theo hình thức đầu tư công; sau khi đưa vào khai thác sẽ thu phí để hoàn trả vốn ngân sách nhà nước. Hình thức này bảo đảm tiến độ dự án và vẫn phù hợp với định hướng huy động nguồn lực xã hội.
Đối với dự án Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột và Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, mặc dù mang lại lợi ích kinh tế - xã hội rất lớn nhưng phương án tài chính hoàn vốn từ thu phí không khả thi, tỷ lệ vốn nhà nước tham gia vượt quá quy định của pháp luật. Do vậy, lựa chọn hình thức đầu tư công; sau khi hoàn thành sẽ thu phí để hoàn trả vốn ngân sách Nhà nước.
Liên quan đến dự kiến tiến độ và thời gian thực hiện dự án, ông Thể cho biết, Chính phủ đã xây dựng một số cơ chế chính sách đặc thù và nếu được áp dụng, dự kiến tiến độ các dự án như sau: Chuẩn bị đầu tư năm 2022, khởi công năm 2023, dự án Biên Hòa - Vũng Tàu cơ bản hoàn thành năm 2025; dự án Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng cơ bản hoàn thành một số đoạn có lưu lượng lớn năm 2025 và toàn tuyến năm 2026.
Sơ bộ tổng mức đầu tư các dự án khoảng 84.463 tỷ đồng. Trên cơ sở tiến độ triển khai 03 dự án, dự kiến nhu cầu vốn trong giai đoạn 2021 - 2025 khoảng 60.124 tỷ đồng, chuyển tiếp giai đoạn 2026 - 2030 khoảng 24.339 tỷ đồng.
Nguồn vốn giai đoạn 2021 - 2025, Chính phủ dự kiến bố trí từ: Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 đã dự kiến phân bổ cho 03 dự án khoảng 26.147 tỷ đồng; Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021 - 2025 của Bộ Giao thông vận tải sau khi rà soát, sắp xếp lại khoảng 2.203 tỷ đồng; Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội khoảng 9.620 tỷ đồng; Tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách trung ương năm 2021 khoảng 13.796 tỷ đồng; Ngân sách địa phương khoảng 8.358 tỷ đồng.
“Trong hai năm 2022, 2023, Chính phủ ưu tiên giải ngân hết toàn bộ nguồn vốn từ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội và nguồn tăng thu, tiết kiệm chi ngân sách Trung ương năm 2021”, Bộ trưởng Thể nhấn mạnh.
Liên quan đến cơ chế, chính sách triển khai dự án, để đẩy nhanh tiến độ triển khai, Chính phủ kiến nghị 03 dự án được áp dụng các cơ chế chính sách đặc thù được Quốc hội chấp thuận tại Nghị quyết số 43.
“Chính phủ kiến nghị Quốc hội quyết định chủ trương đầu tư 03 dự án và giao Chính phủ chuẩn xác phạm vi và tổng mức đầu tư các dự án thành phần trong bước báo cáo nghiên cứu khả thi, tổ chức triển khai thực hiện dự án bảo đảm tiến độ, chất lượng và hiệu quả”, ông Thể nêu.
Đại diện cơ quan thẩm tra, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh cho biết: Nhất trí với sự cần thiết đầu tư 03 dự án. Tuy nhiên, một số ý kiến đề nghị cần đánh giá kỹ tính cấp thiết, khả năng bố trí nguồn lực, đánh giá tác động của việc sử dụng vốn đầu tư công triển khai cùng lúc nhiều dự án hạ tầng đối với lạm phát, khả năng giải ngân, hấp thụ vốn…
Một số ý kiến đề nghị cần tiếp tục rà soát kỹ suất đầu tư và so sánh với các dự án cao tốc tương tự để làm rõ sơ bộ tổng mức đầu tư của các dự án này. Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, giá các loại vật tư, nhiên liệu tăng cao, do đó cần lưu ý, xem xét, tính toán dự phòng trong tổng mức đầu tư. Đồng thời, cần báo cáo, làm rõ hơn các chi phí thu hồi, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, đặc biệt liên quan đến việc chuyển mục đích sử dụng rừng, đất lúa.
Về áp dụng các cơ chế, chính sách đã được Quốc hội chấp thuận tại Nghị quyết số 43, Ủy ban Kinh tế thống nhất với đề xuất của Chính phủ. “Có ý kiến cho rằng để bảo đảm tính khả thi, hiệu quả trong tổ chức thực hiện đề nghị được áp dụng các cơ chế này trong 02 năm kể từ ngày Nghị quyết có hiệu lực thi hành”, ông Thanh nêu.
Q.N (t/h)