Nhiều ý kiến tại tọa đàm “Đưa công nghệ vũ trụ trở thành động lực phát triển mới” do Báo Tiền Phong tổ chức cho rằng, Việt Nam đã có những bước tiến đáng ghi nhận như phát triển các vệ tinh MicroDragon, NanoDragon, VNREDSat-1 và xây dựng Trung tâm Vũ trụ Việt Nam tại Hòa Lạc. Tuy nhiên, các thành tựu này vẫn rời rạc, thiếu sức bật nếu không có chiến lược dài hạn và cơ chế đầu tư mạnh mẽ, thống nhất.

PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam. Ảnh VGP/TG.
PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam. Ảnh VGP/TG.

Cơ chế và thực tế

Ông Lý Hoàng Tùng, Phó Vụ trưởng Vụ Khoa học kỹ thuật và Công nghệ, Bộ Khoa học và Công nghệ (KH&CN) cho biết, thời gian qua, Bộ KH&CN đã triển khai Chương trình KH&CN quốc gia về công nghệ vũ trụ qua 4 giai đoạn từ năm 2008 đến nay; xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích chuyển giao các công nghệ, sản phẩm thuộc lĩnh vực công nghệ vũ trụ có tính lưỡng dụng giữa dân sự và quốc phòng, an ninh; đẩy mạnh liên kết quốc tế với các đối tác lớn như NASA (Mỹ), JAXA (Nhật Bản), CNES (Pháp)...

Đặc biệt, các văn bản chiến lược quan trọng tạo cơ sở phát triển công nghệ vũ trụ như Nghị quyết 57-NQ/TW, Quyết định 169/QĐ-TTg, hay gần đây nhất là Quyết định 1131/QĐ-TTg ngày 12/6/2025 của Thủ tướng Chính phủ ban hành Danh mục công nghệ chiến lược và Sản phẩm công nghệ chiến lược, trong đó công nghệ hàng không, vũ trụ nằm trong nhóm 11 công nghệ chiến lược được ưu tiên đầu tư phát triển.

Theo ông Trần Tuấn Ngọc, Cục trưởng Cục Viễn thám quốc gia, Bộ Nông nghiệp và Môi trường, công nghệ vũ trụ đã thẩm thấu vào nhiều khía cạnh của đời sống. Nhu cầu sử dụng các sản phẩm của ngành công nghệ vũ trụ là rất lớn, bao gồm các lĩnh vực: Viễn thông, viễn thám và định vị dẫn đường. 

Tuy nhiên, hạ tầng công nghệ của Việt Nam còn yếu, lại chưa có kế hoạch và lộ trình phát triển hạ tầng công nghệ bài bản, chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các bộ, ngành liên quan... Ngoài ra, chúng ta còn gặp thách thức khi tận dụng kho dữ liệu khổng lồ trong khi việc thu hút nhân tài ngành khoa học công nghệ để vận hành hệ thống có kiến thức đa ngành, nhất là về viễn thám.

Ông Trần Tuấn Ngọc đề xuất cần đầu tư hạ tầng công nghệ bài bản, chính sách thu hút và giữ chân nhân tài để ngành công nghệ vũ trụ Việt Nam phát triển mạnh mẽ và lâu dài hơn.

Dưới góc độ doanh nghiệp, bà Lê Thanh Hương, Tổng Giám đốc Công ty Công nghệ Sao Vega cho rằng, công nghệ vũ trụ đang gặp nhiều thách thức từ nhận thức xã hội đến thiếu cơ chế khuyến khích đơn vị sử dụng.

Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ vũ trụ đủ mạnh để dần hình thành các năng lực riêng biệt. Ảnh internet.
Phát triển tiềm lực khoa học và công nghệ vũ trụ đủ mạnh để dần hình thành các năng lực riêng biệt. Ảnh internet.

Để thúc đẩy ngành công nghệ và dữ liệu vũ trụ, bà Hương đề xuất cần đưa công nghệ và dữ liệu Địa không gian vào chương trình chuyển đổi số quốc gia, bởi chính là lớp nền quan trọng cho toàn bộ hệ thống số vận hành hiệu quả.

Ngoài ra cần có cơ chế “miễn trừ trách nhiệm” cho việc sử dụng công nghệ mới, do tính minh bạch và đặc thù kỹ thuật khiến dữ liệu cũ và mới có thể khác biệt, ví dụ như ranh giới đất đai, công trình xây dựng...Đồng thời, cần phổ cập kiến thức vũ trụ tới người dân, nhất là thông qua chương trình giáo dục ở trường học và truyền thông đại chúng.

"Nhà nước nên ưu tiên đặt hàng các doanh nghiệp trong nước, kể cả tư nhân nghiên cứu - phát triển ứng dụng cũng như phát triển vệ tinh", bà Lê Thanh Hương nhấn mạnh. 

PGS.TS Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam phân tích, để giải bài toán chia cắt giữa các bộ, ngành hiện nay, Việt Nam cần xây dựng một cơ quan Hàng không vũ trụ quốc gia. Ví dụ ở các quốc gia như Philippines, nơi có một cơ quan vũ trụ quốc gia trực thuộc Chính phủ để điều hành tập trung, có luật vũ trụ.

Kinh tế vũ trụ - ngành kinh tế tiềm năng

Ông Phạm Anh Tuấn nhấn mạnh, kinh tế vũ trụ toàn cầu dự báo có thể đạt 1.400 tỷ USD vào năm 2030. Nếu không tận dụng cơ hội này, Việt Nam sẽ tụt lại phía sau trong cuộc đua công nghệ và chủ quyền không gian. 

Tọa đàm "Đưa công nghệ vũ trụ trở thành động lực phát triển mới" - Ảnh: VGP/TG
Tọa đàm "Đưa công nghệ vũ trụ trở thành động lực phát triển mới". Ảnh VGP/TG.

"Đã đến lúc chúng ta cần xác định vũ trụ không chỉ là công nghệ chiến lược mà còn là một ngành kinh tế tiềm năng. Việc xây dựng một chiến lược quốc gia về kinh tế vũ trụ sẽ mở ra những cơ hội phát triển mới, từ ứng dụng vệ tinh, viễn thông, đến các dịch vụ liên quan", PGS.TS Phạm Anh Tuấn nói.

Đồng thời, không gian vũ trụ cần được xác định là một trong 5 không gian chiến lược của quốc gia, cùng với đất liền, biển, trên không và không gian mạng.

Tiến sỹ Nguyễn Quân, nguyên Bộ trưởng Bộ KH&CN đề xuất, Việt Nam xác định phạm vi đầu tư cho hợp lý, tránh lãng phí, trong đó cần ưu tiên quan tâm nghiên cứu phát triển hệ thống vệ tinh tầm thấp, vệ tinh nhỏ, hệ thống vệ tinh viễn thông – viễn thám và các hệ thống điều hành mặt đất, xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học trong lĩnh vực khoa học vũ trụ.

Đặc biệt, ông Nguyễn Quân nhấn mạnh việc thí điểm “cơ chế sandbox” cho các dự án công nghệ lớn theo tinh thần Nghị quyết 193 của Quốc hội cho phép tổng công trình sư được trao quyền tự chủ cao, chấp nhận rủi ro và miễn trừ trách nhiệm trong nghiên cứu triển khai.

Tiến sỹ Nguyễn Lương Quang, chuyên gia đến từ Viện năng lượng nguyên tử và năng lượng thay thế - CEA Paris-Saclay của Pháp cho rằng: Việt Nam cần những mô hình thí điểm có cơ chế linh hoạt, trả lương cạnh tranh, giao quyền chủ động cho nhóm nghiên cứu. Những mô hình như nhóm vật lý thiên văn ở Quy Nhơn, dù chỉ với vài tỷ đồng tài trợ, đã thu hút được hơn 200 nhà khoa học quốc tế tham gia.

Tiến sỹ Nguyễn Trọng Hiền, chuyên gia của Cơ quan Hàng không Vũ trụ Hoa Kỳ (NASA) nêu quan điểm: ủng hộ mô hình thí điểm đổi mới trong quản lý và tuyển dụng để thu hút người tài, tạo môi trường phát triển cho chuyên gia khoa học vũ trụ.

Ảnh usth.edu.vn.
Chuyên gia: Đưa công nghệ vũ trụ thành động lực phát triển mới - ngành kinh tế tiềm năng. Ảnh usth.edu.vn.

Hiện nay, công nghệ vũ trụ, kết tinh của công nghệ cao, đang bước sang một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên thương mại hoá, hội nhập và đổi mới. Trong thập kỷ qua, không chỉ các cơ quan Chính phủ mà các tập đoàn tư nhân và công ty khởi nghiệp đã tham gia tích cực vào khoa học và công nghệ vũ trụ khiến lĩnh vực này ngày càng hiện diện sâu rộng hơn trong đời sống xã hội trên toàn thế giới.

Khoa học, công nghệ và dữ liệu không gian cũng đã có nhiều đóng góp trực tiếp hoặc gián tiếp trong quá trình thực hiện mục tiêu phát triển bền vững ở các quốc gia trên thế giới.

Tại Việt Nam, việc tự chủ trong phát triển vệ tinh quan sát trái đất, một trong những công nghệ nổi bật của công nghệ vũ trụ phục vụ mục tiêu phát triển bền vững, sẽ mang lại vị thế nhất định cho chúng ta trên trường quốc tế.

Chuyên gia phân tích

PGS. TS. Phạm Anh Tuấn, Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam (Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam) cho rằng, khi Việt Nam có khả năng tự chế tạo vệ tinh, không những chúng ta có thể chủ động phát triển vệ tinh theo nhu cầu mà các vệ tinh này có thể hoạt động một cách tin cậy trong những hoàn cảnh đặc biệt.

Tự chủ, chủ động tự chế tạo vệ tinh là một trong những nội dung quan trọng nhất giúp Việt Nam tiết kiệm chi phí và giảm sự phụ thuộc vào công nghệ và dịch vụ từ nước ngoài. Điều này không chỉ nâng cao năng lực tự chủ về công nghệ mà còn thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp vũ trụ trong nước, tạo cơ hội việc làm và khuyến khích doanh nghiệp tham gia phát triển khoa học và công nghệ.

Đặc biệt, trong khía cạnh an ninh quốc gia, việc tự chế tạo vệ tinh đóng vai trò vô cùng quan trọng. Có khả năng tự chế tạo vệ tinh giúp chúng ta chủ động giám sát biên giới, lãnh thổ, vùng biển, vùng trời của mình một cách liên tục và chính xác hơn, ít phụ thuộc vào các biến động hay xung đột chính trị trên thế giới.

PGS. TS. Guillaume Patanchon – Trưởng khoa Vũ trụ và Ứng dụng (USTH) hướng dẫn sinh viên tại phòng thực hành
PGS. TS. Guillaume Patanchon – Trưởng khoa Vũ trụ và Ứng dụng (USTH) hướng dẫn sinh viên tại phòng thực hành. Ảnh usth.edu.vn.

Nhờ đó, chúng ta có thể phát hiện sớm các hoạt động xâm phạm, bảo đảm an ninh quốc gia và bảo vệ chủ quyền lãnh thổ. Sự tự chủ trong công nghệ vệ tinh còn giúp tăng cường khả năng ứng phó với các tình huống khẩn cấp và hỗ trợ hoạt động an ninh phi truyền thống, cứu hộ, cứu nạn, góp phần giữ vững ổn định và phát triển bền vững đất nước.

Thực tế, thời gian qua, Việt Nam đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm về phát triển, vận hành khai thác vệ tinh thông qua các dự án vệ tinh quan sát trái đất như VNREDSat-1 và LOTUSat-1 (thuộc Dự án "Trung tâm Vũ trụ Việt Nam").

Thông qua các Dự án này, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đã đào tạo đội ngũ nhân lực trình độ cao và đầu tư cơ sở vật chất và trang thiết bị có thể phục vụ cho việc thiết kế, chế tạo và thử nghiệm vệ tinh nhỏ có khối lượng lên đến 180kg.

Hiện nay, Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam đang trình Thủ tướng phê duyệt một Đề án về "Tăng cường năng lực quốc gia về quan sát Trái đất dựa trên hệ thống vệ tinh nhỏ" nhằm phát huy tối đa hiệu quả cơ sở hạ tầng đã được đầu tư, tạo tiền đề để thúc đẩy sự tham gia của các doanh nghiệp, từ đó dần hình thành hệ sinh thái phát triển công nghệ vệ tinh, góp phần quan trọng vào quá trình làm chủ công nghệ vệ tinh của Việt Nam.

Theo lý giải của Tổng Giám đốc Trung tâm Vũ trụ Việt Nam, việc phát triển một chùm vệ tinh quan sát Trái Đất hoàn toàn phù hợp với các mục tiêu chiến lược, bởi nó có thể cung cấp dữ liệu chất lượng cao phục vụ giám sát môi trường, đánh giá biến đổi khí hậu, quản lý thiên tai và lập bản đồ tài nguyên.

Trung tâm điều khiển và vận hành vệ tinh tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc
Trung tâm điều khiển và vận hành vệ tinh tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc. Ảnh VGP.

Chùm vệ tinh sẽ hỗ trợ quy hoạch nông nghiệp, phát triển hạ tầng và bảo vệ đa dạng sinh học, góp phần thúc đẩy các quyết định dựa trên dữ liệu thực tế. Dữ liệu ảnh vệ tinh sẽ là "dữ liệu Quốc gia" để các bộ, ngành, địa phương có thể dùng được cho các lĩnh vực khác nhau.

Đồng thời, đây là động lực để nâng cao năng lực nghiên cứu trong nước, đặc biệt trong các lĩnh vực công nghệ vệ tinh, phân tích dữ liệu và khoa học vũ trụ, qua đó xây dựng một lực lượng lao động chất lượng cao.

Ngoài ra, phát triển một chùm vệ tinh của riêng Việt Nam không chỉ giúp nước ta giảm sự phụ thuộc vào nguồn dữ liệu nước ngoài mà còn tăng cường vị thế khu vực trong lĩnh vực công nghệ môi trường không gian, từ đó hỗ trợ các mục tiêu phát triển kinh tế, an ninh quốc gia và xây dựng đô thị thông minh theo tầm nhìn đến năm 2045.

Dự kiến, Đề án này sẽ được thực hiện trong giai đoạn 2025-2030, với tầm nhìn đến năm 2040, bao gồm các mục tiêu cụ thể như: Chế tạo và phóng 01 vệ tinh radar độ phân giải siêu cao; thiết kế, chế tạo và thuê phóng 2 vệ tinh quang học độ phân giải cao; xây dựng Trung tâm Lắp ráp, Tích hợp và Thử nghiệm cho vệ tinh dưới 600kg tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc; nâng cấp hệ thống điều khiển và vận hành vệ tinh tại Khu Công nghệ cao Hòa Lạc; chuyển giao công nghệ, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực công nghệ vệ tinh nhỏ quan sát trái đất và ứng dụng…

Nếu Đề án được phê duyệt và triển khai hiệu quả, sẽ góp phần tăng cường năng lực của Việt Nam trong việc từng bước tự chủ về công nghệ chế tạo, vận hành và khai thác các vệ tinh nhỏ quan sát trái đất phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, ngăn chặn nguy cơ tụt hậu về công nghệ vệ tinh so với các quốc gia phát triển, đảm bảo an ninh quốc gia trong mọi trường hợp.

PV (t/h)