Để thực hiện thành công mục tiêu của Chiến lược, căn cứ vào quy mô, cơ cấu, tiềm lực, sức cạnh tranh, tính độc lập tự chủ của nền kinh tế; căn cứ vào các động lực tăng trưởng trong từng thời kỳ và kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành phát triển kinh tế - xã hội; căn cứ vào bối cảnh kinh tế, chính trị quốc tế và những hạn chế, yếu kém, khó khăn, thách thức, rủi ro của nền kinh tế, hằng năm Chính phủ xây dựng, trình Quốc hội thông qua Nghị quyết về Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm với 15 chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội để Chính phủ chỉ đạo thực hiện, bao gồm:
(1). Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước (GDP); (2). GDP bình quân đầu người theo đô la Mỹ (USD); (3). Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP; (4). Tốc độ tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân; (5). Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân (NSLĐ); (6). Tỷ trọng lao động nông nghiệp trong tổng lao động xã hội; (7). Tỷ lệ lao động qua đào tạo, trong đó có bằng, chứng chỉ; (8). Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị; (9). Tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm; (10). Số bác sĩ trên 10 nghìn dân; (11). Số giường bệnh trên 10 nghìn dân; (12). Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế trong tổng dân số; (13). Tỷ lệ số xã đạt chuẩn nông thôn mới; (14). Tỷ lệ thu gom và xử lý chất thải rắn sinh hoạt đô thị bảo đảm tiêu chuẩn, quy chuẩn; (15). Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường.
Nguyên nhân một số chỉ tiêu phát triển kinh tế-xã hội không đạt
Trong bối cảnh xung đột địa chính trị, tình hình kinh tế thế giới biến động nhanh, phức tạp, khó lường, công tác nắm bắt thông tin, đánh giá tình hình chưa sát, chưa theo kịp diễn biến và thực tế tình hình kinh tế trong và ngoài nước. Đặt mục tiêu kế hoạch của một số chỉ tiêu hằng năm chưa dựa trên năng lực thực tế của nền kinh tế. Bên cạnh đó phản ứng chính sách của một số cơ quan trung ương, địa phương chưa kịp thời, thận trọng quá mức làm gia tăng khó khăn cho doanh nghiệp, hộ sản xuất kinh doanh và nền kinh tế.
Cơ chế, chính sách, quy định pháp luật còn mâu thuẫn, chồng chéo, xa rời thực tiễn rất khó triển khai thực hiện. Chẳng hạn, quy định giao cho một địa phương làm cơ quan chủ quản thực hiện đầu tư các dự án giao thông đường bộ qua nhiều địa phương, sử dụng ngân sách của địa phương này hỗ trợ cho địa phương khác; giao địa phương làm cơ quan chủ quản, sử dụng vốn ngân sách địa phương đầu tư thực hiện các dự án thuộc thẩm quyền của bộ, cơ quan trung ương trên địa bàn… là không thực tiễn, ít tính khả thi.
Đặc biệt, doanh nghiệp phải đối mặt với nhiều rào cản trong chính sách và thực thi chính sách. Mặc dù đã có những đột phá về cải cách thể chế, hoàn thiện môi trường pháp lý về đầu tư kinh doanh với nhiều kết quả đáng khích lệ, tuy vậy hệ thống pháp luật và thực thi pháp luật vẫn chưa minh bạch, thiếu cụ thể và không ổn định, khả năng tiên liệu thấp dẫn đến rủi ro gia tăng cho các doanh nghiệp.
Báo cáo tình hình phát triển Doanh nhân, Doanh nghiệp và Hiệp hội doanh nghiệp của Việt Nam do Viện Phát triển doanh nghiệp thuộc VCCI phản ánh trong năm 2022, tỷ lệ doanh nghiệp không bao giờ hoặc hiếm khi dự đoán được sự thay đổi trong quy định pháp luật của Trung ương lên tới 70,8%, trước đó năm 2021 là 68,8%. Việc chính quyền địa phương thực thi chính sách, pháp luật của Trung ương cũng đang là vấn đề lớn với nhiều doanh nghiệp.
Chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng, thiếu các giải pháp đột phá nâng cao năng suất lao động
Nhìn lại giai đoạn 2016-2020, năng suất lao động bình quân hằng năm tăng 6,05%, cao hơn tốc độ tăng NSLĐ bình quân hằng năm 4,53% của giai đoạn 2011-2015, vượt mục tiêu đề ra trong Nghị quyết số 05-NQ/TW, khóa XII là tốc độ tăng NSLĐ bình quân hằng năm giai đoạn 2016-2020 cao hơn 5,5%.
Vào giai đoạn 2021-2025, trong 3 năm 2021-2023, tốc độ tăng NSLĐ đều thấp hơn mục tiêu được Quốc hội thông qua hằng năm. Bình quân 3 năm 2021-2023, NSLĐ tăng 4,3%/năm, thấp hơn 2,5 điểm phần trăm so với mục tiêu kế hoạch kinh tế - xã hội giai đoạn 2021-2025 và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2021-2030. Để đạt mục tiêu NSLĐ giai đoạn 2021-2025 tăng 6,5%, thì NSLĐ hai năm 2024-2025 phải tăng 9,8%.
Năng suất lao động của kinh tế nước ta thấp là do: Nguồn nhân lực còn nhiều bất cập, lao động trong khu vực nông nghiệp và khu vực phi chính thức chiếm tỷ trọng cao trong lực lượng lao động của toàn nền kinh tế, chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao NSLĐ, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Cơ cấu lao động theo ngành kinh tế chưa hợp lý, tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ ở mức thấp, cơ cấu đào tạo không hợp lý, thiếu lao động có tay nghề cao, cả bên cung và bên cầu chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động hiện đại, linh hoạt, bền vững và hội nhập. Chưa phát huy được vai trò chủ đạo của năng suất lao động nội ngành.
Năng suất lao động của khu vực doanh nghiệp thấp. Ứng dụng công nghệ, kỹ thuật trong sản xuất kinh doanh còn hạn chế, máy móc, thiết bị và quy trình công nghệ còn lạc hậu. Đặc biệt, Chính phủ, các bộ, ngành, địa phương và toàn bộ hệ thống chính trị chưa nhận thức đúng về tầm quan trọng của NSLĐ, chưa khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia trung và dài hạn về nâng cao NSLĐ với các chính sách và giải pháp đột phá.
Chuyển dịch cơ cấu của toàn nền kinh tế và trong nội ngành công nghiệp chế biến chế tạo còn chậm
Ngành công nghiệp chế biến chế tạo (CBCT) đóng vai trò quan trọng, động lực cho phát triển nhanh và bền vững trong thời kỳ cách mạng công nghiệp 4.0. Trong các kỳ đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta luôn đề cập tới công nghiệp hoá và hiện đại hoá, ưu tiên phát triển ngành công nghiệp CBCT.
Tuy vậy, chúng ta chưa dành sự quan tâm thoả đáng trong đầu tư, triển khai thực hiện ở tầm chiến lược cho ngành công nghiệp CBCT. Hiện nay, ngành công nghiệp CBCT về cơ bản dừng lại ở trình độ lắp ráp - Trình độ thấp nhất trong 4 cấp độ công nghiệp hoá. Chưa có tín hiệu cho thấy khi nào ngành công nghiệp quan trọng này vươn lên trình độ sản xuất với kỹ thuật riêng; cao hơn là trình độ sản xuất với thiết kế riêng và cao nhất là trình độ sản xuất với thương hiệu riêng.
Công nghiệp phụ trợ chưa phát triển, lĩnh vực công nghiệp thuộc khu vực FDI cơ bản là hoạt động lắp ráp, tận dụng lao động giá rẻ, tạo ra giá trị gia tăng nội địa thấp. Giai đoạn vừa qua, quá trình chuyển dịch cơ cấu của toàn nền kinh tế và trong nội ngành công nghiệp CBCT diễn ra chậm là nguyên nhân dẫn tới tỷ trọng công nghiệp CBCT trong GDP của nước ta đạt thấp.
Cùng với bất cập vừa phản ánh ở trên, năm 2023, tổng cầu thế giới suy giảm, tổng cầu trong nước phục hồi chậm là nguyên nhân không đạt mục tiêu Tỷ trọng công nghiệp chế biến, chế tạo trong GDP.
Việc phân luồng, đào tạo lao động không theo nhu cầu của thị trường ảnh hưởng tới việc làm bền vững và nâng cao năng suất lao động
Trong bối cảnh kinh tế Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới, sự phát triển của chuỗi giá trị toàn cầu thúc đẩy hội nhập quốc tế sâu rộng của thị lao động, đòi hỏi lao động Việt Nam phải có kỹ năng nghề và năng lực làm việc trong môi trường quốc tế. Trong bối cảnh đó, Việt Nam phải tuân thủ các tiêu chuẩn chung, bao gồm các tiêu chuẩn về lao động, về quản trị thị trường lao động hiện đại theo chuẩn mực quốc tế.
Hằng năm chúng ta đưa ra chỉ tiêu: "Tỷ lệ lao động qua đào tạo" bao gồm cả lao động tự đào tạo, tự nâng cao tay nghề, mà không có bằng cấp, chứng chỉ liệu có phù hợp không? Thống kê chỉ tiêu này nhằm mục đích gì? mang lại lợi ích gì cho các nhà quản lý? Thiết nghĩ chúng ta chỉ nên đặt mục tiêu và hằng năm đánh giá việc thực hiện mục tiêu bằng chỉ tiêu "Tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ".
Nhiều năm qua, các địa phương đã quan tâm triển khai thực hiện chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn và khu vực phi chính thức. Tuy nhiên, việc đào tạo tràn lan, không định hướng, đào tạo cho đủ chỉ tiêu chứ không quan tâm đến chất lượng hay đầu ra cho học viên đã dẫn đến tình trạng lao động vừa thừa, vừa thiếu, tỷ lệ lao động được đào tạo đúng ngành nghề còn thấp. Những bất cập này dẫn đến tình trạng lao động, nhất là lao động ở nông thôn được đào tạo nghề phù hợp, có việc làm còn thấp.
Bên cạnh đó, nhiều lao động trẻ, lao động phổ thông không thiết tha với việc học nghề. Vì vậy, tỷ lệ lao động qua đào tạo có bằng cấp chứng chỉ đạt thấp, không đạt mục tiêu đã được thông qua. Vấn đề lao động qua đào tạo có bằng cấp, chứng chỉ thấp; tỷ lệ lao động trong nông nghiệp và khu vực phi chính thức ở mức cao đang đặt ra áp lực lớn để tạo việc làm bền vững và tăng năng suất lao động của nền kinh tế.
Triển vọng thực hiện các chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024
Ngày 9/11/2023, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 103/2023/QH15 về Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2024, giao Chính phủ, chính quyền địa phương các cấp thực hiện 15 chỉ tiêu chủ yếu của Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội.
Trong tổng số 15 chỉ tiêu, các chỉ tiêu từ số 8 đến số 15 là những chỉ tiêu về xã hội, môi trường ít chịu tác động từ các yếu tố khách quan của tình hình kinh tế, chính trị thế giới và khu vực.
Bên cạnh đó, Đảng và Chính phủ có Chỉ thị và các giải pháp đồng bộ giảm nghèo bền vững theo hướng đa chiều, bao trùm; hỗ trợ các hộ nghèo, hộ cận nghèo phát triển sản xuất, đa dạng sinh kế. Với bản tính chịu khó, không ngồi chờ trợ cấp của người lao động.
Vì vậy, nếu không có những biến cố bất ngờ, việc thực hiện các chỉ tiêu về xã hội, môi trường trong Kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2024 hoàn toàn có tính khả thi, nhiều chỉ tiêu có thể vượt mục tiêu đã được Quốc hội giao.
Mục tiêu năng suất lao động năm 2024
Năng suất lao động xã hội bình quân và GDP bình quân đầu người là chỉ tiêu phái sinh, được tính gián tiếp và phụ thuộc khá nhiều vào kết quả đạt được của chỉ tiêu Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước.
Thực tế hiện nay, với quy trình và công nghệ sử dụng trong sản xuất kinh doanh của nền kinh tế còn lạc hậu; Chuyển dịch cơ cấu của toàn nền kinh tế và trong nội ngành công nghiệp chế biến chế tạo còn chậm; Lao động qua đào tạo có văn bằng chứng chỉ, có kỹ năng, tay nghề còn thấp.
Theo ước tính, ngay cả khi tốc độ tăng GDP năm 2024 đạt 6% - 6,5% khi đó chỉ tiêu tốc độ tăng NSLĐ xã hội bình quân năm 2024 vẫn khó đạt mục tiêu kế hoạch đã được Quốc hội thông qua tăng từ 4,8% - 5,3%.
Cần làm gì để thực hiện thành công Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024?
Để thực hiện thành công toàn diện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2024, đặc biệt là mục tiêu tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước tạo đà thuận lợi phấn đấu đạt mức cao nhất các mục tiêu theo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2021 - 2025, Chính phủ và các địa phương cần thực hiện một số nhóm giải pháp sau:
Một là, đầu tư công là động lực quan trọng, thúc đẩy tăng trưởng trong bối cảnh tổng cầu thế giới và trong nước phục hồi chậm. Các bộ, ngành, địa phương khẩn trương thực hiện nghiêm nội dung chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Công điện số 24/CĐ-TTg ngày 22/3/2024 về việc đẩy nhanh tiến độ phân bổ và giải ngân vốn đầu tư công năm 2024. Đặc biệt, khẩn trương phân bổ chi tiết kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2024 theo nguyên tắc trọng tâm, trọng điểm, không dàn trải, phù hợp với khả năng thực hiện, tuân thủ các quy định pháp luật về đầu tư công.
Chính phủ cần xây dựng chiến lược, kế hoạch và chương trình đầu tư công phù hợp, đáp ứng đúng và trúng nhu cầu đầu tư của từng ngành, lĩnh vực và địa phương. Tập trung đầu tư vào các dự án lớn, xóa bỏ đầu tư dàn trải, giảm thiểu thời gian thực hiện dự án, khẩn trương đưa các công trình vào sử dụng, nâng cao hiệu quả vốn đầu tư công.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần có giải pháp phát huy vai trò, gắn trách nhiệm và xử lý trách nhiệm của người đứng đầu bộ, ngành, cơ quan trung ương và địa phương trong thực hiện giải ngân vốn đầu tư công.
Đặc biệt, cần tập trung xử lý vấn đề giải phóng mặt bằng (GPMB) theo hướng bố trí GPMB thành một dự án độc lập, được thực hiện với các quy định đặc thù, phù hợp với điều kiện thực tế, nhằm nâng cao tính sẵn sàng cho việc triển khai dự án. Các cơ chế và mức bồi thường GPMB phải thỏa đáng, bảo đảm quyền lợi cho người dân khi di dời, tái định cư để có sự đồng thuận khi triển khai.
Để tạo sự đột phá trong thu hút vốn FDI, Chính phủ cần tăng cường năng lực cạnh tranh của môi trường đầu tư, kinh doanh, phát triển cơ sở hạ tầng, tập trung nâng cao năng lực cơ sở hạ tầng giao thông, hạ tầng công nghiệp, công nghệ, thông tin và logistics; hoàn thiện thể chế, môi trường pháp lý rõ ràng, công khai, minh bạch và quy định rõ, đơn giản các thủ tục liên quan tới quyền sử dụng đất; phòng cháy chữa cháy. Cùng với đó, có cơ chế khuyến khích các dự án FDI sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường, tự sản xuất và sử dụng năng lượng tái tạo; đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng và tay nghề với mức lương cạnh tranh trong khu vực và thế giới.
Hai là, chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu có vai trò quan trọng trong bối cảnh toàn cầu hóa và định hình lại chuỗi cung ứng. Chính phủ cần khẩn trương hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật về xuất, nhập khẩu; thực hiện chính sách tài khóa và tiền tệ hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng nguồn cung, tiết giảm chi phí nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại, nâng cao vai trò, trách nhiệm và tính hiệu quả của các cơ quan thương vụ Việt Nam tại nước ngoài để phát triển thị trường xuất khẩu. Đa dạng hoá thị trường xuất, nhập khẩu, đặc biệt đối với thị trường nhập khẩu để giảm thiểu tác động của những cú sốc từ các thị trường này.
Chính phủ cần khẩn trương nắm bắt các ngành, lĩnh vực sẽ trở thành xu hướng phát triển của kinh tế thế giới trong thời gian tới, kịp thời sửa đổi và bổ sung Chiến lược tăng trưởng dựa vào xuất khẩu để đưa kinh tế Việt Nam hoà vào dòng chảy, thuộc nhóm tiên phong trên một số lĩnh vực của kinh tế thế giới.
Bộ Công Thương cần tiếp tục đẩy mạnh công tác thông tin thị trường; hỗ trợ doanh nghiệp tận dụng hiệu quả cơ hội và các cam kết từ các Hiệp định thương mại để đẩy mạnh xuất khẩu; đồng thời tăng cường tuyên truyền về quy tắc xuất xứ và cấp Giấy chứng nhận xuất xứ; tập trung xây dựng hình ảnh doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam uy tín.
Các doanh nghiệp xuất khẩu cần khẩn trương, nhanh nhậy nắm bắt tín hiệu thị trường, giữ vững thị trường truyền thống, chủ động tìm kiếm đơn hàng, mở thêm thị trường mới.
Ba là, cùng với chính sách tiền tệ nới lỏng, Chính phủ xem xét tiếp tục thực hiện chính sách tài khoá nghịch chu kỳ hỗ trợ doanh nghiệp như: giãn, hoãn thời hạn nộp một số khoản thuế, phí cho doanh nghiệp; tiếp tục tháo gỡ rào cản về môi trường pháp lý, tạo môi trường sản xuất kinh doanh thông thoáng, tạo niềm tin cho khu vực doanh nghiệp.
Chính phủ cần thực hiện cải cách và hoàn thiện thể chế khơi thông và sử dụng hiệu quả mọi nguồn lực của đất nước. Hoàn thiện đồng bộ môi trường pháp lý để tất cả các loại thị trường đều phát triển và cạnh tranh lành mạnh. Trong đó, đặc biệt quan tâm tới xây dựng và hoàn thiện thể chế thị trường hàng hoá; thị trường nhân tố và thể chế quản trị doanh nghiệp.
Bốn là, ứng dụng công nghệ cao, trí tuệ nhân tạo, phát triển xanh là xu hướng tất yếu, làm thay đổi rất nhanh cấu trúc kinh tế thế giới; cùng với đó, chuỗi cung ứng toàn cầu được sắp xếp lại.
Chính phủ cần nắm bắt thời cơ, kiến tạo động lực mới cho phát triển, khẩn trương xây dựng chiến lược, với các giải pháp toàn diện, đồng bộ, kế hoạch và lộ trình thực hiện chi tiết, cụ thể để tạo dựng và phát triển một số ngành, lĩnh vực sẽ đóng vai trò động lực tăng trưởng mới của nền kinh tế như: lĩnh vực công nghệ cao, chíp bán dẫn, trí tuệ nhân tạo; kinh tế tuần hoàn; năng lượng tái tạo.
Chính phủ cần xác định cụ thể phải làm gì; tập trung đầu tư, phát triển ngành nào trong lĩnh vực công nghệ cao; có giải pháp phù hợp và thực thi hiệu quả để kinh tế nước ta vươn lên, trở thành cường quốc trong xuất khẩu công nghệ cao.
Năm là, để kiểm soát lạm phát theo mục tiêu, Chính phủ và các địa phương cần có giải pháp đảm bảo đầy đủ nguồn cung với giá ổn định đối với nhóm hàng lương thực, thực phẩm. Có giải pháp đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia, bảo đảm cung ứng đầy đủ xăng dầu đáp ứng nhu cầu của nền kinh tế. Dự báo, xây dựng kế hoạch, giải pháp cung ứng đủ điện cho sản xuất và tiêu dùng trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
Đặc biệt, Chính phủ cần thực hiện chính sách tài khoá và tiền tệ linh hoạt, phù hợp, giữ ổn định vĩ mô. Ngân hàng Nhà nước cần kiên định thực hiện chính sách tín dụng và lãi suất phù hợp, hài hoà với nhu cầu. Từ đó, đảm bảo lợi ích của các thực thể có liên quan trong nền kinh tế, giữ giá trị VND, giảm áp lực lạm phát tiền tệ đối với nền kinh tế; điều chỉnh tỷ giá linh hoạt nhằm ổn định giá nguyên vật liệu nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm sản xuất trong nước.
Đồng thời, đánh giá tác động của việc tăng giá dịch vụ y tế, giáo dục đối với lạm phát và tăng trưởng kinh tế để quyết định mức độ, thời điểm điều chỉnh giá các loại dịch vụ do Nhà nước quản lý, đáp ứng mục tiêu kiểm soát lạm phát, giảm tác động tiêu cực đến mức sống của người dân.
Sáu là, Chính phủ cần khẩn trương xây dựng và triển khai thực hiện Chiến lược quốc gia về nâng cao năng suất lao động. Định kỳ đánh giá, bổ sung, cập nhật Chiến lược phù hợp với những thay đổi mau lẹ của kinh tế thế giới.
Trong xu hướng toàn cầu hoá kinh tế thế giới đòi hỏi công nghiệp CBCT nước ta phải gắn kết vào chuỗi cung ứng và chuỗi giá trị toàn cầu với chất lượng và hiệu quả cao hơn. Chính phủ cần đánh giá kết quả thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế trong những năm qua, xác định nguyên nhân, bất cập làm chậm quá trình này, từ đó có giải pháp phù hợp đẩy nhanh tiến trình cơ cấu lại nền kinh tế, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng của nền kinh tế, đặc biệt đối với ngành công nghiệp CBCT là đòi hỏi khách quan, cấp bách, có tính mệnh lệnh để tạo dựng và phát triển các ngành công nghiệp mới, nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của các ngành hiện có, thúc đẩy phát triển công nghiệp phụ trợ, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu tư liệu sản xuất.
Cơ cấu lại nền kinh tế phải phù hợp với xu hướng thay đổi của kinh tế thế giới. Cơ cấu lại từng ngành theo hướng phát huy lợi thế so sánh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tập trung nội lực, thúc đẩy động lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao. Cùng với đó, cơ cấu lại lĩnh vực đầu tư công, ngân sách nhà nước, hệ thống các tổ chức tín dụng.
Ngay từ đầu năm, Chính phủ yêu cầu các cấp, các ngành, các địa phương quyết tâm khắc phục mọi khó khăn, vượt qua mọi thách thức, giữ vững tinh thần vượt khó, đoàn kết, tự lực, tự cường, chủ động thích ứng, linh hoạt, hành động quyết liệt, khoa học, hiệu quả, tích cực đổi mới, sáng tạo theo phương châm: "Kỷ cương trách nhiệm; chủ động kịp thời; tăng tốc sáng tạo; hiệu quả bền vững."
Với năng lực và kinh nghiệm trong điều hành của Chính phủ cùng sự đồng hành kịp thời, hiệu quả của Quốc hội; với tinh thần chủ động, linh hoạt, sáng tạo, đương đầu với khó khăn, thách thức của cộng đồng doanh nghiệp, kinh tế Việt Nam sẽ hoá giải được những khó khăn, bất cập, để đạt được tối đa các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội năm 2024 đã được Quốc hội thông
TheoChinhphu.vn