Việc kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải tuân thủ đúng quy định của Luật Hải quan, Luật Quản lý ngoại thương và các văn bản hướng dẫn thi hành. Đồng thời, cần căn cứ vào các Thông tư của Bộ Công Thương hướng dẫn thực hiện các điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, quy tắc xuất xứ hàng hóa và các quy định pháp luật liên quan.

Hoạt động kiểm tra này được thực hiện trong quá trình làm thủ tục hải quan, dựa trên nguyên tắc đánh giá rủi ro, theo phân luồng kiểm tra của Cục Hải quan và phù hợp với quy định tại Thông tư số 38/2015/TT-BTC (sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 39/2018/TT-BTC), cùng các hướng dẫn nghiệp vụ của Cục trưởng Cục Hải quan.

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa (Ảnh: internet)

Việc kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu phải được thực hiện đúng theo quy định của Luật Hải quan, Luật Quản lý ngoại thương, các văn bản hướng dẫn thi hành, cùng các Thông tư của Bộ Công Thương về thực hiện điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia và quy tắc xuất xứ hàng hóa.

Quy trình kiểm tra được triển khai trong quá trình làm thủ tục hải quan, trên cơ sở đánh giá rủi ro và phân luồng kiểm tra của Cục Hải quan, phù hợp với Thông tư số 38/2015/TT-BTC (được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư 39/2018/TT-BTC) và các hướng dẫn nghiệp vụ liên quan.

Trường hợp đường dẫn hoặc trang thông tin điện tử của cơ quan có thẩm quyền nước xuất khẩu có thay đổi liên quan đến danh sách nhà xuất khẩu đủ điều kiện tự chứng nhận xuất xứ, Cục Hải quan sẽ thông báo bằng văn bản và công khai trên Cổng thông tin điện tử hải quan để các Chi cục Hải quan nắm bắt và thực hiện.

Nếu trang thông tin điện tử không cung cấp đầy đủ thông tin cần thiết để xác định tính hợp lệ của C/O, công chức hải quan sẽ kiểm tra bổ sung bằng cách đối chiếu C/O dưới dạng điện tử hoặc bản giấy chuyển đổi, các chứng từ trong hồ sơ hải quan do người khai nộp qua Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử, cũng như kết quả kiểm tra thực tế hàng hóa (nếu có).

Trường hợp chứng từ chứng nhận xuất xứ được cấp trên Cổng thông tin một cửa quốc gia, một cửa ASEAN bị lỗi hoặc không tra cứu được, công chức hải quan chụp màn hình lỗi hoặc màn hình báo không có dữ liệu, chỉ thị trên hệ thống yêu cầu hướng dẫn người khai hải quan nộp bổ sung chứng từ chứng nhận xuất xứ dưới dạng dữ liệu điện tử hoặc chứng từ giấy chuyển đổi sang chứng từ điện tử (bản scan có xác nhận bằng chữ ký số) thông qua Hệ thống xử lý dữ liệu điện tử hải quan để kiểm tra, xác định tính hợp lệ của chứng từ chứng nhận xuất xứ và lưu theo dõi.

Trong trường hợp hồ sơ phức tạp, có dấu hiệu gian lận xuất xứ hoặc liên quan đến các lô hàng có nguy cơ chuyển tải bất hợp pháp, công chức hải quan sẽ đề xuất kiểm tra, xác minh thông tin. Nội dung kiểm tra gồm: rà soát thông tin xuất xứ trên các tờ khai trước đó đối với hàng hóa tương tự; thu thập dữ liệu về tuân thủ pháp luật hải quan, thuế và hoạt động xuất nhập khẩu của doanh nghiệp từ các đơn vị nghiệp vụ và chi cục hải quan địa phương.

Đối với tổ chức, cá nhân không có trụ sở tại Việt Nam đề nghị xác định trước xuất xứ, Cục Hải quan có thể đề xuất trao đổi thêm thông tin với người đề nghị để làm rõ xuất xứ, như thông tin về nhà sản xuất, quy trình sản xuất, hồ sơ kỹ thuật hoặc mẫu hàng hóa. Đồng thời, có thể phối hợp với Bộ Công Thương, VCCI và các cơ quan liên quan để xác minh thông tin về doanh nghiệp, hàng hóa, tiêu chí xuất xứ, lịch sử cấp C/O, quy trình sản xuất,...

Đối với hàng hóa xuất khẩu có dấu hiệu nghi ngờ về xuất xứ, Cục Hải quan có thể thành lập đoàn kiểm tra tại cơ sở sản xuất, phối hợp với Chi cục Hải quan địa phương và yêu cầu tổ chức, cá nhân liên quan hỗ trợ công tác kiểm tra thực tế.

Hà Trần(t/h)