THCLLTS: Đào tạo nghề cho lao động nông thôn, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 1956/QĐ-TTg ngày 27/11/2009 (Đề án 1956) với lộ trình tới năm 2020. Đến nay, sau hơn 5 năm thực hiện, không thể phủ nhận đề án đang đi đúng hướng, đúng với tiêu chí đặt ra. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, mục tiêu mà đề án muốn mang đến cho nông dân, lại chưa thực hiện được.

Bài 1: Gian nan nửa chặng đường

Nhà nước tăng cường đầu tư để phát triển đào tạo nghề cho lao động nông thôn, có chính sách bảo đảm thực hiện công bằng xã hội về cơ hội học nghề đối với mọi lao động nông thôn.

Ảnh minh họa

Đạt 70,8% mục tiêu

Đề án 1956 ra đời với mục tiêu: Dạy nghề cho khoảng 11 triệu lao động nông thôn, trong đó, hỗ trợ dạy nghề cho 6,54 triệu người theo chính sách của đề án; đào tạo, bồi dưỡng khoảng 1,2 triệu lượt cán bộ, công chức xã.

Sau 5 năm thực hiện (giai đoạn 2010 - 2014), cả nước đã có gần 3,2 triệu lao động nông thôn được học nghề, đạt 70,8% mục tiêu đề ra; đặt hàng dạy nghề trình độ cao đẳng, trung cấp cho 10.534 người thuộc diện hộ nghèo, người dân tộc thiểu số, lao động nông thôn bị thu hồi đất canh tác có khó khăn về kinh tế. Số lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề đạt 90,4% kế hoạch. Trong số hơn 1,9 triệu lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề xong, có hơn 1,5 triệu người có việc làm sau học nghề, đạt 78,7% (cao hơn 8,7% so với mục tiêu tối thiểu của đề án là 70% số lao động nông thôn có việc làm sau học nghề).

Trong giai đoạn đầu của đề án, tại nhiều địa phương đã có tác động tích cực và hiệu quả trong việc chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu kinh tế của địa phương; nâng cao năng suất, tạo ra nghề phụ tăng thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho lao động nông thôn, góp phần bảo đảm tình hình ANTT nông thôn, giảm tệ nạn xã hội…

Còn nhiều bất cập

Tìm hiểu nội dung Đề án 1956, nhóm phóng viên đã về một số địa phương tỉnh Phú Thọ, Thanh Hóa, Bắc Giang… và phát hiện nhiều sai phạm.

Theo đó, sai phạm trong quản lý, sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ dạy nghề và mua thiết bị dạy nghề. Nhiều nơi sử dụng nguồn vốn hỗ trợ mua sắm trang thiết bị dạy nghề, nhưng lại phục vụ cho các ngành nghề không thuộc tiêu chí của dự án, thậm chí nhiều nhóm trang thiết bị được mua sắm có giá trị hàng tỷ đồng lại chưa 1 lần được đưa vào sử dụng mà cất… trong kho (!).

Đối với việc sử dụng nguồn kinh phí hỗ trợ cho việc dạy nghề, công tác đào tạo còn tồn tại nhiều bất cập. Chẳng hạn, thời gian học thực tế của các học viên đang có sự khập khễnh so với lịch trình giảng dạy của các trung tâm dạy nghề; việc mua sắm vật tư hỗ trợ đào tạo còn nhiều nghi vấn.

Tại một số địa phương, việc xác định nghề đào tạo chưa phù hợp với nhu cầu của người lao động, nhu cầu của DN, cũng như xã hội, dẫn đến việc người học nghề xong không có việc làm. Có nơi, xây dựng định hướng nghề đào tạo chủ chốt nhưng lại không thể phát triển, do vậy công tác tuyển sinh học viên còn nhiều khó khăn, mua sắm trang thiết bị nhưng không thể mở lớp gây lãng phí ngân sách...

Nhiều cơ sở chưa thực sự chú trọng vào vấn đề hiệu quả và tính thiết thực của đề án, mà chạy theo số lượng, thành tích, quên đi mấu chốt của vấn đề chính là đào tạo nghề đạt hiệu quả. Hiệu quả chính là sau khi học nghề, người lao động làm việc ở đâu? Họ có đáp ứng được công việc không? Khi sản xuất ra sản phẩm rồi thì họ sẽ tiêu thụ như thế nào?... Vấn đề này chưa thực hiện được một cách triệt để.

Dấu hiệu sai phạm

Đào tạo nghề cho lao động nông thôn được UBND tỉnh Bắc Giang và Sở LĐ-TB&XH triển khai tới từng địa phương trên địa bàn nhằm nâng cao chất lượng lao động nông thôn, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo.

Theo báo cáo của Phòng LĐTB&XH Tân Yên, trong 5 năm qua, có 4.496 lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề theo Đề án 1956. Sau khi học xong, tỷ lệ có việc làm đạt 100%.

Ông Nguyễn Văn Mão, Phó phòng LĐTB&XH Tân Yên cho biết: “5 năm qua, thực hiện đề án, bà con tham gia các khóa học, không còn tình trạng chăn nuôi manh mún, nhờ đó, nhiều hộ gia đình thu nhập ổn định và vươn lên làm giàu; tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo ở địa phương có sự chuyển biến rõ rệt”.

“Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn gặp nhiều khó khăn do nguồn nhân lực còn thiếu (cán bộ chuyên trách theo dõi theo đề án chưa được phân bổ) nên công việc không được bảo đảm; giáo viên cơ hữu còn thấp, khiến thời gian dạy khó sắp xếp, giáo viên ký hợp đồng tại các đơn vị khác gặp khó khăn; đối tượng tham gia đào tạo nghề có trình độ học thức khác nhau, nhiều nông dân không được học nên khả năng tiếp thu kiến thức còn gặp nhiều khó khăn, gây khó cho cán bộ, giáo viên” ông Mão chia sẻ.

Được biết, nguồn kinh phí được hỗ trợ từ Chương trình mục tiêu quốc gia cho đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, phòng lớp học tại Trung tâm Dạy nghề Tân Yên là 4 tỷ đồng (bao gồm 12 phòng học và nhà xưởng), nguồn kinh phí mua sắm trang thiết bị dạy nghề là 2,7 tỷ đồng (bao gồm trang thiết bị phục vụ nghề may công nghiệp, tin học, điện dân dụng). Trong số 12 phòng học này, có 11 phòng đã được đưa vào sử dụng, còn 1 phòng thực hành nghề điện lạnh được đầu tư năm 2012, nhưng chưa được sử dụng lần nào.

Cũng theo báo cáo của Phòng LĐTB&XH, trong 5 năm qua, việc tiếp nhận chương trình đầu tư phát triển, xây dựng cơ sở vật chất, nhà xưởng, phòng học còn nhiều hạn chế như hồ sơ chưa đầy đủ, tiến độ chưa bảo đảm, nguồn vốn giải ngân chậm; việc mua sắm trang thiết bị chưa hiệu quả, chất lượng đào tạo chưa cao, hiệu quả sử dụng nhà xưởng, trang thiết bị còn nhiều hạn chế.

Điều đáng nói đó là còn nhiều nghi vấn trong công tác đầu tư, sử dụng nguồn kinh phí, công tác đào tạo... Dư luận băn khoăn: Việc mua sắm, xây dựng cơ sở vật chất có được thực hiện đúng hay không; nguồn kinh phí phục vụ công tác đào tạo được sử dụng như thế nào?

Khai khống hồ sơ?

Theo báo cáo của Trung tâm Dạy nghề Tân Yên, trong 5 năm qua (2010 - 2014), tổng số kinh phí thực hiện đề án là 10,219 tỷ đồng, tổng số lao động nông thôn được học nghề là 1.969 người (trong đó số lao động nông thôn được hỗ trợ theo đề án 1956 là 1.619 người, đạt 78% kế hoạch đề ra).

Sau khi tham gia khóa học, hầu hết số học viên đều có việc làm. Cụ thể, có 373 lao động đủ điều kiện vào các DN và số lao động nông thôn tự tạo công ăn việc làm là 1.246 người. Các ngành nghề được đào tạo nhiều nhất là chăn nuôi, thú y, may công nghiệp, sửa chữa máy nông nghiệp.

Tìm hiểu công tác đào tạo nghề đem lại hiệu quả ra sao, chúng tôi đã đề nghị được cung cấp danh sách một số lớp đã kết thúc, đã thanh quyết toán hết trong năm 2014. Theo đó, lịch giảng dạy, chương trình đào tạo, đối với lớp nông nghiệp là 520.000 đồng/người/tháng (thời gian trong 2 tháng). Đối với một lớp phi nông nghiệp là 428 tiết học, bao gồm 90 tiết lý thuyết, còn lại 338 tiết thực hành và kiểm tra. Nguồn kinh phí dành cho lớp học này là 650.000 đồng/người/1tháng, khóa học kéo dài 3 tháng (tương đương với 58,5 triệu đồng lớp, gồm 30 học viên).

Phóng viên đã lấy ngẫu nhiên lớp sửa chữa máy nông nghiệp 2-K7 tại xã Quế Nham (học từ ngày 25/6 - 3/10/2014) và thật bất ngờ khi ý kiến người dân, người trực tiếp tham gia vào khóa học lại trái ngược hoàn toàn với những gì mà phía Trung tâm Dạy nghề Tân Yên cung cấp?

Theo lịch giảng dạy của trung tâm, xây dựng cho lớp sửa chữa máy nông nghiệp tại Quế Nham với tổng số tiết là 344 tiết (bao gồm 76 tiết lý thuyết, 256 tiết thực hành, 12 tiết kiểm tra), thời gian trong 69 ngày trong suốt khóa học.

Ông Thân Văn Triệu, Lớp trưởng Lớp sửa chữa máy nông nghiệp này cho biết: “Ngoài thời gian học lý thuyết là 3 buổi, 1 tuần học 2 buổi thực hành”.

Theo như ông Triệu nói thì thời gian học đối với toàn bộ số học viên, tổng cộng là 27 buổi (bao gồm cả lý thuyết, thực hành và kiểm tra).

Trước chia sẻ của ông Triệu, anh Ngô Văn Phương, cán bộ trung tâm, phụ trách lớp khẳng định: “Thời gian thực học kéo dài đầy đủ trong 69 buổi, còn chú Triệu có buổi đi buổi nghỉ”.

Liệu câu trả lời của anh Phương đã hợp tình hợp lý, khi khẳng định “ông Triệu đi buổi nào thì tôi cũng đều có mặt tại lớp buổi đó và ông Triệu là người đồng hành cùng tôi trong suốt khóa học”? Theo lịch giảng dạy, anh Phương có mặt tại lớp 61 ngày. Nhưng anh Phương cũng không cho rằng lời ông Triệu nói là sai. Vậy, thời gian học thực tế của học viên kéo dài trong bao lâu?

Nhiều nghi vấn

Theo như tìm hiểu của phóng viên, trong số danh sách 30 học viên tham gia lớp học sửa chữa máy nông nghiệp 2 K7 nói trên, thì có 8 người không hề tham gia khóa học, mà do cán bộ trung tâm nhờ một cán bộ công an viên có tên N.V.H (xin được giấu tên) dẫn xuống gia đình 8 người dân này xin tên tuổi, địa chỉ và ảnh để cho đủ danh sách lớp học. Thắc mắc vấn đề này, anh Phương cho biết: “Danh sách 30 học viên được lập theo đúng các quy định hướng dẫn của Sở LĐTB&XH và các học viên tham gia học đầy đủ”.

Tuy nhiên, sau những câu hỏi chất vấn, cuối cùng anh Phương biện minh: “8 học viên kia, lúc đầu có đi học nhưng sau đó bỏ, không đi nữa”.

Điều đáng nói, kết thúc khóa học, 8 học viên này vẫn được tham gia thi kết thúc khóa học, vẫn được cấp chứng chỉ như các học viên khác.

Theo khoản 1, điều 38 của Luật Giáo dục nghề nghiệp thì, người học - học hết chương trình đào tạo trình độ sơ cấp có đủ điều kiện sẽ được kiểm tra hoặc thi kết thúc khóa học, nếu đạt yêu cầu, sẽ được người đứng đầu cơ sở giáo dục nghề nghiệp, DN được phép hoạt động đào tạo nghề nghiệp cấp chứng chỉ sơ cấp. Căn cứ vào quy định này, liệu rằng, 30 học viên tham gia lớp sửa chữa máy nông nghiệp như nêu trên - có đủ điều kiện để được thi và cấp chứng chỉ hay không?

Một vấn đề nữa đó là số tiền 58,5 triệu đồng để tổ chức đào tạo lớp phi nông nghiệp, đã thanh quyết toán và giải ngân, được sử dụng ra sao? Theo bảng dự toán kinh phí của lớp sửa chữa máy nông nghiệp 2 K7 thì số tiền thù lao giáo viên, người dạy nghề là 21,4 triệu đồng, tiền hỗ trợ nguyên vật liệu thực hành là 18,6 triệu đồng. Tất cả kinh phí này được sử dụng cho 428 tiết học đối với lớp học có 30 học viên. Tuy nhiên, trên thực tế, số lượng học viên, thời gian học ra sao (thời gian đào tạo theo như giáo trình đã được duyệt chỉ là 334 tiết), số tiền quyết toán được sử dụng thế nào… vẫn còn là dấu hỏi lớn

Từ khi triển khai theo Đề án 1956, tại Tân Yên, tỷ lệ hộ nghèo trước kia là 11,8%, nay giảm xuống còn 4,6%, tỷ lệ cận nghèo giảm còn 5,6%. Tuy nhiên, sau 5 năm thực hiện tại Trung tâm Dạy nghề huyện Tân Yên, còn tồn tại những điểm bất cập - cần được các cơ quan chức năng vào cuộc làm rõ.

Chinh Anh - Phong Long (Thương hiệu & Công luận)