Tham gia góp ý, ĐBQH Cầm Thị Mẫn (Đoàn ĐBQH tỉnh Thanh Hoá) nhất trí cao với sự cần thiết phải ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND với những căn cứ chính trị, pháp lý và thực tiễn như đã nêu trong Tờ trình của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và báo cáo của cơ quan thẩm tra.
Để góp phần hoàn thiện dự án Luật, ĐBQH Cầm Thị Mẫn tham gia một số vấn đề đó là: Nội dung dự thảo Luật đã bám sát 5 chính sách được Quốc hội thông qua tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XV; giải quyết các hạn chế, bất cập của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND hiện hành được xác định qua tổng kết 7 năm thi hành Luật, kết quả nghiên cứu, xây dựng Đề án của Đảng đoàn Quốc hội về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động giám sát của Quốc hội... Đồng thời, đại biểu cũng đánh giá cao cơ quan soạn thảo đã nghiên cứu kĩ, tiếp thu tối đa các ý kiến góp ý của các cơ quan và giải trình cơ bản các ý kiến tham gia.
Tuy nhiên, để dự án Luật được ban hành đáp ứng yêu cầu thực tiễn, ĐBQH Cầm Thị Mẫn đề nghị cơ quan soạn thảo tiếp tục rà soát căn cứ chức năng nhiệm vụ của Quốc hội, HĐND nhất là về thẩm quyền giám sát để sửa đổi, bổ sung các quy định tại dự thảo Luật nhằm bảo đảm tính thống nhất giữa nội dung của dự thảo Luật này với các điều luật khác của Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND hiện hành; phù hợp, thống nhất với Hiến pháp và hệ thống pháp luật liên quan.
Nghiên cứu một số hồ sơ liên quan đến xây dựng các nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội hướng dẫn hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật, hoạt động giải trình tại phiên họp của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội và một số cuộc tọa đàm lấy ý kiến về các dự thảo nghị quyết này, ĐBQH Cầm Thị Mẫn đề nghị xem xét nội dung về “các hoạt động giải trình tại phiên họp của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội và giải trình tại phiên họp của HĐND”.
Theo quy định tại khoản 5 Điều 43 và khoản 4 Điều 72 của Luật Hoạt động giám sát hiện hành thì kết luận vấn đề được giải trình được thông qua tại Phiên giải trình. Tuy nhiên, thực tiễn một số phiên giải trình của cơ quan của Quốc hội cho thấy kết luận về vấn đề giải trình là vấn đề khó, cần bám sát diễn biến của phiên giải trình, do đó, cần có thời gian để Thường trực các Ủy ban chuẩn bị, những vấn đề khó cần phải xin ý kiến các cơ quan để bảo đảm tính chính xác và tạo đồng thuận đối với các nội dung của Kết luận (tương tự như nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về hoạt động chất vấn). Thực tế khi xây dựng dự thảo Nghị quyết hướng dẫn hoạt động giải trình tại phiên họp của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội cũng có một số cơ quan có ý kiến về vấn đề này, nhưng do Luật Hoạt động giám sát quy định cụ thể kết luận vấn đề được giải trình được thông qua tại Phiên giải trình nên không thể hướng dẫn trái luật.
Do vậy, đề nghị Cơ quan soạn thảo nghiên cứu sửa đổi quy định tại khoản 5 Điều 43 và khoản 4 Điều 72 theo hướng linh hoạt, không nhất thiết phải thông qua tại Phiên giải trình, có thể xin ý kiến thành viên Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, thành viên Thường trực HĐND bằng văn bản và vẫn bảo đảm theo nguyên tắc kết luận được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, thành viên của Thường trực HĐND tán thành.
Về giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo (điểm a khoản 20 Điều 1 dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 30 Luật HĐGS). Theo đó, ngoài các báo cáo của Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo theo Luật hiện hành thì dự thảo Luật có bổ sung thêm báo cáo của Kiểm toán nhà nước về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Việc bổ sung báo cáo này là cần thiết, tuy nhiên theo các quy định tại Luật Hoạt động giám sát hiện hành thì việc bổ sung như trên chưa thực sự phù hợp với các quy định về hoạt động xem xét báo cáo của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, cụ thể như sau: Tại khoản 1 Điều 24 Luật hiện hành quy định: “Trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo công tác của Chính phủ, Tòa án Nhân dân tối cao, Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Kiểm toán nhà nước, cơ quan khác do Quốc hội thành lập và các báo cáo khác quy định tại khoản 1 Điều 13 của Luật này do Quốc hội giao hoặc khi xét thấy cần thiết”.
Tại điểm c khoản 1 Điều 13 Luật hiện hành quy định: “c) ...; Báo cáo của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo;...”
Như vậy, theo quy định tại khoản 1 Điều 24 và khoản 1 Điều 13 Luật hiện hành không có báo cáo của Kiểm toán nhà nước về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo. Do đó, để bảo đảm tính thống nhất, phù hợp giữa các điều luật của Luật Hoạt động giám sát, đại biểu đề nghị bổ sung quy định về việc Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét báo cáo của Kiểm toán nhà nước về việc giải quyết khiếu nại, tố cáo tại khoản 1 Điều 24, điểm c khoản 1 Điều 13 và sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 30.
An Nhiên