Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,9% lên 9.648 USD/tấn. Giá đã đạt mức cao nhất trong một tuần trong phiên trước đó.
Hợp đồng đồng tháng 12 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) SCFcv1 giảm 0,3% ở mức 77.200 Nhân dân tệ (10.840,57 USD)/tấn.
Đồng USD bám sát mức cao nhất trong hai tháng rưỡi, khiến kim loại được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên kém hấp dẫn hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.
Trung Quốc đã hạ lãi suất cho vay chuẩn vào thứ Hai, sau khi giảm các mức lãi suất chính sách khác vào tháng trước như một phần của gói biện pháp kích thích nhằm phục hồi nền kinh tế.
Dữ liệu gần đây từ Trung Quốc cho thấy tăng trưởng kinh tế chậm lại, nhấn mạnh nhu cầu về các biện pháp kích thích bổ sung.
Kim loại cơ bản được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực như xây dựng và điện tử, trong đó Trung Quốc là nước tiêu thụ hàng đầu. Bất kỳ biện pháp nào thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của nước này đều có khả năng làm tăng nhu cầu về kim loại vật chất.
Các chi tiết khác liên quan đến việc nới lỏng chính sách của Trung Quốc tại cuộc họp sắp tới của Đại hội đại biểu Nhân dân toàn quốc (NPC) có khả năng sẽ hỗ trợ cho kim loại cơ bản vào cuối năm và đầu năm 2025, các nhà phân tích tại Citi cho biết trong một lưu ý.
Trong khi đó, sản lượng đồng tinh chế của Trung Quốc trong tháng 9 vẫn ở mức 1,14 triệu tấn, tăng 0,4% so với cùng kỳ năm trước.
Nhôm CMAl3 của LME tăng 0,9% lên 2.620 USD/tấn, niken CMNI3 giảm 0,6% xuống 16.600 USD, kẽm CMZN3 tăng 1% lên 3.106,5 USD, chì CMPB3 tăng 0,7% lên 2.071 USD và thiếc CMSN3 giảm 0,5% xuống 30.865 USD.
Nhôm SAFcv1 của SHFE tăng 0,2% lên 20.840 Nhân dân tệ/tấn, niken SNIcv1 giảm 1,3% xuống 127.310 Nhân dân tệ, kẽm SZNcv1 giảm 1% xuống 25.010 Nhân dân tệ, chì SPBcv1 tăng 0,2% lên 16.785 Nhân dân tệ, trong khi thiếc SSNcv1 giảm 1,4% xuống 252.400 Nhân dân tệ.
Hà Trần (t/h)