Ngân hàng Nhà nước vừa công bố kết quả liên quan đến các giải pháp tháo gỡ khó khăn về tín dụng cho người dân, doanh nghiệp, góp phần khôi phục sản xuất.
Theo đó, tính đến tháng 10/2021, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ cho trên 500.000 khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với dư nợ trên 260.000 tỷ đồng; lũy kế giá trị nợ đã cơ cấu từ 23/1/2020 khoảng 550.000 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, các tổ chức tín dụng đã miễn, giảm, hạ lãi suất cho trên 1,9 triệu khách hàng bị ảnh hưởng bởi dịch với dư nợ gần 3,79 triệu tỷ đồng; lũy kế từ 23/1/2020 đến cuối tháng 10/2021, tổng số tiền lãi tổ chức tín dụng đã miễn, giảm, hạ cho khách hàng khoảng 31.400 tỷ đồng;
Đồng thời, cho vay mới lãi suất thấp hơn so với trước dịch với doanh số lũy kế từ 23/01/2020 đến nay đạt trên 7 triệu tỷ đồng cho hơn 1,2 triệu khách hàng.
Riêng Ngân hàng Chính sách xã hội đã thực hiện gia hạn nợ cho 258.947 khách hàng với dư nợ 6.063 tỷ đồng, cho vay mới đối với 3.505.557 khách hàng với số tiền 129.758 tỷ đồng.
Đối với việc thực hiện tái cấp vốn dành cho Ngân hàng Chính sách xã hội để cho vay hỗ trợ trả lương ngừng việc, trả lương phục hồi sản xuất kinh doanh đối với người lao động theo các Nghị quyết 42/NQ-CP, Nghị quyết 154/NQ-CP, Nghị quyết 68/NQ-CP, Nghị quyết 126/NQ-CP của Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ, đến ngày 8/11/2021, Ngân hàng Nhà nước đã tái cấp vốn cho Ngân hàng Chính sách xã hội số tiền 749,52 tỷ đồng để cho vay theo Nghị quyết số 68/NQ-CP.
Ngân hàng Chính sách xã hội đã giải ngân trên 63 tỉnh, thành phố với số tiền 750 tỷ đồng đối với 1.449 đơn vị sử dụng lao động để trả lương ngừng việc và trả lương phục hồi sản xuất cho 209.280 lượt người lao động.
Theo bà Nguyễn Thị Hồng, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, Việt Nam đang đối diện với rủi ro lạm phát. Cụ thể, đối với các nền kinh tế của thế giới đã phục hồi khi chiến lược tiêm vaccine bao phủ, bởi vậy giá cả hàng hóa trên thị trường thế giới có xu hướng gia tăng chỉ số mặt hàng giá (ví dụ giá xăng dầu trong tháng 9/2021 đã tăng 55,2% so với cuối năm trước…).
Ngoài ra, các nước phát triển lạm phát đã tăng mức cao nhất trong lịch sử (với Mỹ lạm phát đã tăng 5,3% trong tháng 9 vừa qua). Trong khi đó, Việt Nam là nước có độ mở kinh tế lớn, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu/GDP là 200% nên có áp lực rủi ro của lạm phát nhập khẩu.
"Xu hướng lạm phát tăng nhanh khiến nhiều ngân hàng trung ương trên thế giới hiện đã và đang phải dừng, rút dần nới lỏng chính sách tiền tệ. Đến nay đã có 65 lượt tăng lãi suất trên thế giới. Bởi vậy, áp lực lạm phát và áp lực điều hành chính sách tiền tệ trong thời gian tới nhìn từ tác động bên ngoài vào là rất lớn”, Thống đốc nói.
Thậm chí, theo Thống đốc, đối với thị trường trong nước, nợ xấu của hệ thống các tổ chức tín dụng đang gia tăng. Thời gian qua, các ngân hàng giảm lãi suất bằng chính nguồn lực tài chính của mình chứ không phải tiền từ ngân sách. Khi nợ xấu gia tăng, bản thân các tổ chức tín dụng phải dùng nguồn lực tài chính của mình để xử lý nợ xấu.
Do đó, về điều hành chính sách tiền tệ thời gian tới, Thống đốc cho biết Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục chỉ đạo toàn hệ thống ngân hàng tiết giảm chi phí hoạt động để tiếp tục giảm lãi suất. Tuy nhiên, vẫn phải đảm bảo tỷ lệ an toàn của từng tổ chức tín dụng cũng như toàn hệ thống để những tránh tác động lan truyền.
Ngân hàng Nhà nước cũng sẽ tích cực phối hợp với các Bộ ngành như: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư để tính toán các gói hỗ trợ lãi suất với quy mô, phạm vi, liều lượng hợp lý trên cơ sở vẫn phải đảm bảo các ổn định kinh tế vĩ mô và phòng ngừa rủi ro lạm phát trong thời gian tới, cũng như phòng ngừa rủi ro đối với an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.
Phương Thảo