
Đây là đề án có ý nghĩa chiến lược, hướng tới xây dựng hệ thống trường lớp đồng bộ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục trong bối cảnh Ninh Bình phấn đấu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030.
Tính đến tháng 9/2025, Ninh Bình có 1.607 cơ sở giáo dục, trong đó 1.570 cơ sở công lập và 37 cơ sở tư thục. Cụ thể, bậc mầm non có 503 trường (485 công lập, 18 tư thục), cùng 447 nhóm trẻ, lớp mẫu giáo độc lập tư thục được cấp phép hoạt động.
Cấp tiểu học có 488 trường, trong đó 486 công lập; trung học cơ sở có 468 trường, 467 công lập; trung học phổ thông có 107 trường, gồm 93 công lập và 14 ngoài công lập. Ngoài ra còn có 13 trường tiểu học và THCS, cùng 2 trường THCS và THPT.
Bậc giáo dục thường xuyên (GDTX) hiện có 25 trung tâm, bao gồm các mô hình trung tâm GDTX, trung tâm tin học – ngoại ngữ, trung tâm GDNN – GDTX và trung tâm hướng nghiệp – GDTX.
Toàn tỉnh Ninh Bình hiện có 27.854 lớp với hơn 953.000 học sinh, học viên. Trong đó, bậc mầm non có 8.061 nhóm, lớp với hơn 215.000 trẻ; tiểu học 10.042 lớp (333.000 học sinh); THCS 6.331 lớp (260.000 học sinh); THPT 2.828 lớp (120.000 học sinh) và GDTX cấp THPT 592 lớp với hơn 23.000 học viên.
Mạng lưới trường lớp của Ninh Bình thời gian qua được quy hoạch tương đối hợp lý, đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân. Cơ sở vật chất, thiết bị dạy học được đầu tư theo hướng đồng bộ, hiện đại; tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia và phòng học kiên cố đều vượt chỉ tiêu Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Ninh Bình nhiệm kỳ 2020–2025. Chất lượng giáo dục đại trà và giáo dục mũi nhọn của tỉnh Ninh Bình duy trì trong nhóm dẫn đầu cả nước.
Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều bất cập và hạn chế. Toàn tỉnh Ninh Bình có 247/1.568 cơ sở giáo dục công lập chưa đạt yêu cầu về diện tích khuôn viên theo quy định tối thiểu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, trong đó có 107 trường mầm non, 76 trường tiểu học, 52 trường THCS, 9 trường THPT và 3 trung tâm GDTX.
Một số trường, đặc biệt là các trường ở khu vực đô thị, phường trung tâm, có diện tích đất rất nhỏ, không đáp ứng yêu cầu mở rộng. Nhiều trường chưa có quy hoạch tổng mặt bằng, hoặc chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, gây khó khăn trong việc đầu tư, cải tạo, nâng cấp.
Cơ sở vật chất tại nhiều trường học chưa đạt chuẩn quốc gia còn xuống cấp, thiếu phòng học bộ môn, phòng chức năng, thiết bị dạy học hạn chế. Việc đầu tư, sửa chữa, bổ sung thiết bị còn chậm. Cảnh quan trường học ở nhiều nơi chắp vá, thiếu đồng bộ, chưa đảm bảo tính thẩm mỹ và công năng sử dụng.
Đáng chú ý, nhiều trường sau khi được công nhận đạt chuẩn quốc gia ít được tiếp tục đầu tư nâng cấp, dẫn đến xuống cấp sau 5 năm. Hệ thống trung tâm GDTX ở nhiều địa phương cũng trong tình trạng cơ sở vật chất cũ kỹ, chưa đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân.
Nhiệm kỳ 2025–2030 là giai đoạn bản lề khi Ninh Bình thực hiện mô hình chính quyền địa phương hai cấp, đồng thời hợp nhất địa giới hành chính của ba tỉnh Ninh Bình – Hà Nam – Nam Định. Với mục tiêu tăng tốc phát triển, phấn đấu đến năm 2030 trở thành thành phố trực thuộc Trung ương, tỉnh xác định giáo dục là động lực then chốt để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.
Đề án lần này đặt mục tiêu đầu tư đồng bộ, hiện đại, đạt chuẩn quốc gia cho toàn bộ hệ thống trường công lập, đồng thời quy hoạch đất đai, không gian phát triển hợp lý và tái cấu trúc mạng lưới trường lớp theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với điều kiện thực tế và mô hình chính quyền mới.
Theo đề án, các bậc học sẽ được quy hoạch diện tích tối thiểu cụ thể:
Mầm non: 20 m²/trẻ, tổng diện tích tối thiểu 3.000 m² (với trường ở phường: 15 m²/trẻ, tối thiểu 2.500 m²).
Tiểu học: 20 m²/học sinh, tối thiểu 5.000 m² (ở phường: 12 m²/học sinh, tối thiểu 4.000 m²).
THCS: 20 m²/học sinh, tối thiểu 6.000 m² (ở phường: 12 m²/học sinh, tối thiểu 5.000 m²).
THPT: 20 m²/học sinh, tối thiểu 20.000 m² (ở phường: 12 m²/học sinh, tối thiểu 15.000 m²).
GDTX: 20 m²/học viên, tối thiểu 15.000 m² (ở phường: 12 m²/học viên, tối thiểu 10.000 m²).
Đề án dự kiến triển khai theo ba giai đoạn chính:
Giai đoạn 2026–2028: Xây mới, cải tạo phòng học thay thế toàn bộ phòng bán kiên cố; xây dựng, nâng cấp nhà vệ sinh, đảm bảo điều kiện sinh hoạt học sinh.
Giai đoạn 2028–2030: Tiếp tục xây dựng, sửa chữa phòng học, phòng bộ môn, nhà đa năng, phòng chức năng; hoàn thiện các tiêu chí trường đạt chuẩn quốc gia theo Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh.
Giai đoạn 2031–2035: Tập trung đầu tư chiều sâu, nâng cấp trang thiết bị dạy học, xây dựng trường học thông minh, đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số trong giáo dục.
Tại hội nghị, lãnh đạo các sở, ngành đã đóng góp nhiều ý kiến về quy hoạch đất, đơn giá xây dựng, nguồn vốn đầu tư, cơ chế huy động xã hội hóa, cũng như định hướng xây dựng trường học thông minh.

Phát biểu kết luận, Phó Chủ tịch UBND tỉnh Ninh Bình Hà Lan Anh ghi nhận nỗ lực của Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Bình trong việc chuẩn bị đề án khẩn trương, nghiêm túc, đồng thời yêu cầu tiếp thu đầy đủ ý kiến góp ý, bám sát Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ I, nhiệm kỳ 2025–2030 và Nghị quyết số 71-NQ/TW về phát triển giáo dục và đào tạo.
Bà Hà Lan Anh chỉ đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Ninh Bình phối hợp với các sở, ngành liên quan thống nhất phương án phân bổ từ ngân sách tỉnh, ngân sách cấp xã, phường và các nguồn vốn hợp pháp khác, đảm bảo cân đối, minh bạch, hiệu quả. Đồng thời giao các sở: Xây dựng, Tài chính, Nội vụ, Nông nghiệp và Môi trường phối hợp chặt chẽ để hoàn thiện đề án đúng tiến độ, chất lượng.
Đề án bảo đảm cơ sở vật chất cho giáo dục giai đoạn 2026–2035 được kỳ vọng sẽ tạo bước đột phá cho ngành Giáo dục Ninh Bình, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học, phát triển toàn diện con người, xây dựng nền tảng vững chắc cho mục tiêu trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030.
Hằng Nga
























