Theo đánh giá chung, cả 3 lĩnh vực chính của ngành công thương gồm sản xuất công nghiệp, xuất nhập khẩu và thị trường trong nước đồng thời cho thấy kết quả rất khả quan trong 4 tháng đầu năm, tiếp nối đà phục hồi từ cuối năm 2023, đóng góp tích cực đối với kết quả tăng trưởng của cả nền kinh tế trong 4 tháng đầu năm 2024.

Nguyên nhân chủ yếu của những kết quả trên là do: Hiệu quả từ các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ, các chỉ đạo quyết liệt của Thủ tướng Chính phủ trong giải ngân vốn đầu tư công, triển khai các dự án công nghiệp trọng điểm;

Kết quả thu hút, giải ngân vốn FDI giúp tăng năng lực sản xuất trong nước;

Sự phục hồi của thị trường thế giới, dần chuyển sang trạng thái mới, thích ứng với những biến động lớn các năm 2022, 2023; số lượng các đơn đặt hàng xuất khẩu mới đã tăng;

Các kết quả nổi bật trong công tác đối ngoại về kinh tế, đặc biệt với các đối tác thương mại lớn của nước ta như Mỹ, Trung Quốc... giúp củng cố niềm tin của nhà đầu tư, doanh nghiệp;

Năng lực của các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp trong nước, được cải thiện nhờ tác động tổng hợp từ các chính sách hỗ trợ của Chính phủ (tín hiệu mới tích cực khi doanh nghiệp trong nước tăng trưởng xuất khẩu gần gấp 2 lần doanh nghiệp FDI) và niềm tin được củng cố nhờ môi trường kinh tế vĩ mô trong nước ổn định và xu hướng phục hồi của thị trường thế giới;

Ngoài ra, kết quả trong 4 tháng đầu năm tăng cao phần nào còn do được so sánh với tình hình tăng trưởng thấp, thậm chí suy giảm mạnh của cùng kỳ năm trước.

Ảnh minh họa (nguồn: Internet)
Ảnh minh họa (nguồn: Internet)

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, sản xuất công nghiệp và hoạt động thương mại của nước ta cũng còn tiềm ẩn những vấn đề cần theo dõi sát để kịp thời xử lý như:

Sản xuất công nghiệp phục hồi chưa toàn diện (còn 9/63 địa phương có IIP giảm); một số địa phương, trong đó có địa phương trọng điểm về sản xuất công nghiệp có IIP giảm (như Bắc Ninh giảm 5,5%); chỉ số của ngành sản xuất và phân phối điện tại một số địa phương giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước (Hòa Bình giảm 51,7%; Sơn La giảm 46,2%; Quảng Ninh giảm 23,7%; Lai Châu giảm 16,6%); một số sản phẩm công nghiệp chủ lực giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước (khí hóa lỏng giảm 20,4%; tivi giảm 11,1%; sắt, thép thô giảm 7,9%; linh kiện điện thoại giảm 7,2%; điện thoại di động giảm 2,8%);

Tăng trưởng thị trường trong nước thấp hơn cùng kỳ năm trước (8,5% so với 13,3%); chỉ số giá tiêu dùng trong nước có thể tăng sau khi thực hiện cải cách tiền lương từ ngày 1/7 và điều chỉnh giá điện theo cơ chế mới;

Thị trường xuất khẩu tuy phục hồi nhưng chưa vững chắc; tỷ giá biến động khá mạnh trong tháng 4 đã tác động đến kế hoạch nhập khẩu, sản xuất, xuất khẩu của các doanh nghiệp; giá xuất khẩu một số nhóm hàng nông sản như gạo, hạt tiêu, cà phê… tăng mạnh tuy giúp tăng giá trị xuất khẩu nhưng tiềm ẩn nguy cơ xáo trộn nguồn cung vì tính chuyên nghiệp của doanh nghiệp, nhà cung cấp chưa cao;

Từ tháng 5 bước vào cao điểm nắng nóng, khô hạn trên diện rộng, dẫn đến nhu cầu điện, xăng dầu tăng đột biến (lũy kế 4 tháng sản lượng điện đã tăng tới 12,3% so với cùng kỳ (vượt kịch bản cao 8-9% được dự báo cuối năm 2023), một số khu vực tăng sản lượng đến 35-36%);

Dự báo lạm phát còn ở mức cao do FED buộc phải lùi kế hoạch giảm lãi suất, tổng cầu phục hồi chậm so với kỳ vọng (kinh tế Mỹ trong quý I/2024 tăng trưởng chậm nhất trong gần hai năm);

Chiến sự, điểm nóng trên thế giới tiếp tục diễn biến phức tạp, khó lường;

Nhiều nước áp dụng các biện pháp thu hút đầu tư về nước như Mỹ, Hàn Quốc, EU làm tăng sức ép cạnh tranh vốn đầu tư trong bối cảnh thực hiện cam kết thuế tối thiểu toàn cầu.

Minh Anh