
Tạo nền tảng cho lúa gạo xanh
Sáng 23/12, UBND TP. Cần Thơ tổ chức Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện Đề án phát triển 1 triệu hecta lúa chất lượng cao, phát thải thấp gắn với tăng trưởng xanh vùng ĐBSCL (Đề án), giai đoạn 2024-2025 và triển khai kế hoạch giai đoạn 2026-2030.
Báo cáo tại hội nghị, bà Phạm Thị Minh Hiếu, Chi Cục trưởng Chi cục Trồng trọt và Bảo vệ thực vật TP. Cần Thơ, cho biết tổng diện tích đất sản xuất nông nghiệp của thành phố là 511.000 ha, trong đó diện tích sản xuất lúa đạt 319.000 ha.
Hằng năm, diện tích gieo trồng lúa của Cần Thơ đạt khoảng 695.000 ha, với sản lượng trên 4 triệu tấn. Riêng năm 2025, diện tích gieo trồng đạt 718.461 ha, vượt 0,97% kế hoạch; sản lượng đạt 4.710.308 tấn, vượt 0,81% kế hoạch, tăng 0,44% so với cùng kỳ.
Sau khi hợp nhất thành TP. Cần Thơ mới, Đề án được triển khai tại 64 xã, phường, với diện tích thực hiện năm 2025 là 104.500 ha, dự kiến mở rộng lên 170.877 ha vào năm 2030, cùng sự tham gia của 171 tổ hợp tác, hợp tác xã.
Theo đánh giá của ngành nông nghiệp thành phố, đây là quy mô triển khai lớn, thể hiện quyết tâm chính trị cao của địa phương trong việc thực hiện Đề án, một trong những chương trình trọng điểm của Chính phủ nhằm tái cơ cấu ngành lúa gạo theo hướng chất lượng cao, phát thải thấp.
Giảm đầu vào, hiệu quả ngay từ đồng ruộng
Sau 2 năm triển khai, Đề án đã tạo ra những chuyển biến rõ rệt trong phương thức canh tác lúa tại các vùng tham gia. Theo báo cáo, 100% diện tích vùng Đề án sử dụng giống lúa chất lượng cao như ST, Đài Thơm 8, RVT, OM5451, OM18…, với tỉ lệ sử dụng giống xác nhận đạt 100%.
Một trong những kết quả nổi bật là giảm mạnh lượng giống gieo sạ, từ 30–50% tùy vụ, qua đó giúp nông dân giảm chi phí sản xuất, hạn chế sâu bệnh và đổ ngã. Lượng phân đạm giảm 30%, số lần phun thuốc bảo vệ thực vật giảm 2–3 lần/vụ, góp phần giảm ô nhiễm môi trường và phát thải khí nhà kính.
Trong quản lý nước tưới, 100% hợp tác xã được khảo sát đều thực hiện ngập nước trước khi gieo sạ; 90,2% diện tích có thời gian ngập dưới 30 ngày, còn lại 9,8% ngập từ 30–45 ngày.
Quản lý rơm rạ sau thu hoạch cũng từng bước được cải thiện. Tỉ lệ đưa rơm ra khỏi đồng ruộng đạt 50-60% ở vụ Đông Xuân, 30-40% vụ Hè Thu và 20-30% vụ Thu Đông.
Về liên kết sản xuất-tiêu thụ, hiện có khoảng 76.000 ha được liên kết với doanh nghiệp để cung ứng vật tư đầu vào và bao tiêu sản phẩm đầu ra, chủ yếu tập trung ở vụ Đông Xuân.
Cơ giới hóa chính xác-trụ cột kỹ thuật của Đề án
Phân tích sâu hơn về khía cạnh kỹ thuật, ông Nguyễn Văn Hiếu, chuyên gia tư vấn của Viện Nghiên cứu Lúa gạo quốc tế (IRRI) nhận định, Đề án được xem là định hướng chiến lược, kịp thời và phù hợp, nếu được triển khai đúng hướng, cơ giới hóa chính xác, đồng bộ sẽ là trụ cột kỹ thuật then chốt để hiện thực hóa mục tiêu của Đề án. Thực tế cho thấy nhiều vùng sản xuất hiện nay vẫn duy trì tập quán sạ lan (gieo thẳng/gieo vãi) với lượng giống cao, sử dụng nhiều phân bón và thuốc bảo vệ thực vật, dẫn đến chi phí sản xuất cao, gia tăng sâu bệnh và phát thải khí nhà kính.
Bên cạnh đó, tổn thất sau thu hoạch còn lớn; việc xử lý rơm rạ chưa bền vững, đặc biệt là đốt rơm hoặc vùi rơm trên ruộng ngập nước, là nguyên nhân làm gia tăng phát thải khí metan.

Máy gieo sạ hàng kết hợp vùi phân phát huy hiệu quả
Từ thực tiễn sản xuất, kỹ sư Nguyễn Hồng Thiện, Giám đốc Công ty TNHH MTV Tư Sang, nhà sáng chế hơn 50.000 thiết bị cơ giới phục vụ sản xuất lúa, nhấn mạnh vai trò của cơ giới hóa gieo sạ hàng/cụm kết hợp vùi phân. Theo ông, mô hình này giúp giảm 30-50% lượng giống, giảm 20% lượng phân, giảm 20-30% lượng thuốc bảo vệ thực vật.
Nhờ đó, mô hình không chỉ phù hợp với mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính của Đề án, mà còn giúp giảm thất thoát sau thu hoạch, nâng cao hiệu quả canh tác lúa cho nông dân.
“Trải qua nhiều mô hình triển khai, cơ giới hóa gieo sạ hàng kết hợp vùi phân đã mang lại kết quả khả quan. Tuy nhiên, để phát triển rộng rãi cần có các chính sách hỗ trợ phát triển cơ giới hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi thực hiện Đề án”, kỹ sư Nguyễn Hồng Thiện chia sẻ.
Từ khoa học đến thực tiễn đồng ruộng
Theo IRRI, quản lý rơm rạ sau thu hoạch là nội dung then chốt nhằm giảm phát thải khí metan và phục hồi sức khỏe đất. Khuyến nghị được đưa ra là không đốt rơm rạ, không vùi rơm trên ruộng ngập nước, thay vào đó là xới vùi rơm rạ kết hợp bổ sung vi sinh vật để thúc đẩy phân hủy, cải thiện độ phì nhiêu và phục hồi hệ vi sinh vật của đất.
Bên cạnh đó, rơm rạ có thể được thu gom phục vụ các mô hình nông nghiệp tuần hoàn như trồng nấm, ủ phân hữu cơ, sản xuất thức ăn gia súc. Các nghiên cứu và mô hình thực tế cho thấy cách tiếp cận này có thể tăng khoảng 10% thu nhập cho nông dân và giảm tới 30% dấu chân carbon.
Các công nghệ cơ giới hóa này đã được thử nghiệm tại Cần Thơ, mở rộng trong vùng ĐBSCL và chuyển giao cho nhiều quốc gia, cho thấy khả năng kết nối hiệu quả giữa khoa học và thực tiễn sản xuất.
Nông dân hưởng lợi, nhưng liên kết chuỗi còn hạn chế
Thực tế tại HTX nông nghiệp Hưng Lợi (xã Đại Ngãi, Cần Thơ) cho thấy hiệu quả rõ rệt của Đề án. Ông Võ Văn Thạnh, Phó Giám đốc HTX, cho biết sau 2 năm thực hiện Đề án, năng suất cao hơn, giá bán tốt hơn, lượng giống gieo sạ thấp hơn, nước tưới ít hơn, thuốc bảo vệ thực vật giảm, phát thải khí nhà kính được kiểm soát. Doanh thu đạt 68–70 triệu đồng/ha, cao hơn ngoài mô hình từ 5 triệu đồng trở lên.
Tuy nhiên, ông Thạnh cũng thẳng thắn cho rằng liên kết tiêu thụ chưa thật sự bền vững; việc thu gom rơm rạ còn khó khăn, đòi hỏi doanh nghiệp cần gắn kết chặt chẽ hơn với hợp tác xã để nông dân yên tâm gắn bó lâu dài với Đề án.
Tăng tốc giai đoạn 2026–2030 theo hướng bền vững
Phát biểu chỉ đạo hội nghị, Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ Trần Chí Hùng đánh giá cao kết quả triển khai 104.500 ha với 171 hợp tác xã tham gia, khẳng định Đề án đã tạo ra sự thay đổi lớn trong tư duy sản xuất của nông dân.
Các mô hình thí điểm đã chứng minh lợi ích kép: năng suất tăng, giảm chi phí, lợi nhuận của nông dân tăng thêm từ 1,3-6,5 triệu đồng/ha; đồng thời giảm phát thải khí nhà kính đáng kể, đóng góp trực tiếp vào mục tiêu giảm phát thải quốc gia.
Bên cạnh kết quả đạt được, Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ cũng thẳng thắn chỉ rõ những hạn chế như hạ tầng vùng sản xuất chưa đồng bộ, tỉ lệ cơ giới hóa ở một số khâu còn thấp, mối liên kết giữa doanh nghiệp với nông dân chưa thực sự bền chặt.
Để thực hiện thành công mục tiêu giai đoạn 2026-2030, Phó Chủ tịch UBND TP. Cần Thơ đề nghị ngành nông nghiệp và các đơn vị liên quan tập trung vào 4 nhiệm vụ trọng tâm: Hoàn thiện quy hoạch và hạ tầng vùng sản xuất; triển khai đo lường-báo cáo-thẩm định (MRV) theo quy định; huy động hiệu quả các nguồn lực đầu tư, trong đó có vốn của Ngân hàng Thế giới; đồng thời nâng cao năng lực hợp tác xã, thu hút doanh nghiệp đầu tư vùng nguyên liệu, bảo đảm đầu ra ổn định cho nông dân, tránh tình trạng “được mùa, mất giá”.
Theo Chinhphu.vn

























