THCL Đó là ý kiến của một đại diện DN bia hàng đầu Việt Nam đưa ra tại Tọa đàm “Quy hoạch và công tác quản lý ngành bia Việt Nam” do Hiệp hội Bia – rượu – nước giải khát Việt Nam vừa tổ chức.

Theo Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công thương), sau khi được phê duyệt, ngành sản xuất bia về cơ bản đã thực hiện nghiêm túc Quy hoạch ngành Bia – rượu – nước giải khát Việt Nam. Hầu hết các DN sản xuất bia hoạt động kinh doanh có hiệu quả, thực hiện tốt nghĩa vụ cho ngân sách Nhà nước và lợi nhuận cho nhà đầu tư, góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. Bên cạnh đó, công tác bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm và bảo vệ môi trường được quan tâm, các nhà máy được đầu tư công nghệ, thiết bị tiên tiến đã góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm tiêu hao nguyên, vật liệu, năng lượng, nâng cao năng lực cạnh tranh với các sản phẩm nhập khẩu.
Bà Lê Việt Nga, Vụ phó Vụ Thị trường trong nước (Bộ Công thương) nhận định: “Ngành bia đang đóng góp khoảng 40% giá trị gia tăng cho ngành dịch vụ. Đặc biệt, đây là ngành chiến thắng vang dội, một điển hình thành công trong hưởng ứng cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam với (tỷ lệ tiêu dùng bia nội của người Việt hơn 90%)… Công tác quản lý ngành rất hiệu quả. Tuy nhiên, để phát triển bền vững, ngành cần có khảo sát về thị trường; có trách nhiệm với cộng đồng, bảo vệ sức khỏe người tiêu dùng”.
Tính đến năm 2014,công suất sản xuất bia thực tế huy động (sản xuất và tiêu thụ trên thị trường) là 3,221 triệu lít (mới đạt 81% quy hoạch đã phê duyệt).
Ông Dương Đình Giám, Viện trưởng Viện Nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp (Bộ Công Thương) đánh giá: Ngành bia đã cải tạo, mở rộng, đồng bộ hóa thiết bị để nâng cao năng suất. Việc xây dựng và phát triển thương hiệu để tăng năng lực cạnh tranh cho các sản phẩm bia nội địa trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế được đầu tư… Tuy nhiên, điều này mới chỉ thực hiện ở các DN lớn. Mặt khác, ngành bia đã tăng cường hợp tác quốc tế, liên doanh, liên kết để sản xuất bia cao cấp, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước, song lượng bia xuất khẩu còn thấp.
Theo chỉ đạo của Bộ trưởng Bộ Công thương, hiện nay quy hoạch phát triển ngành Bia – rượu – nước giải khát đến năm 2025, tầm nhìn đến 2035 đang được triển khai xây dựng và dự kiến ban hành vào quý II/2015 với những nội dung chủ yếu sau: Duy trì, phát triển sản xuất đảm bảo hài hòa giữa nhu cầu thực tế của thị trường tiêu dùng và lợi ích của xã hội cũng như DN. Đồng thời, khuyến khích tăng tỷ lệ sản xuất các dòng bia cao cấp với giá cạnh tranh, đẩy mạnh xuất khẩu. Mục tiêu, đến năm 2025, đưa ngành Bia – rượu – nước giải khát Việt Nam thành ngành công nghiệp hiện đại xứng đáng với vị trí, vai trò trong nền kinh tế, có thương hiệu hàng hóa mạnh trên thị trường, có nhiều sản phẩm chất lượng cao, đa dạng về chủng loại, cạnh tranh tốt trong quá trình hội nhập, đáp ứng như cầu trong nước và tăng dần xuất khẩu. Cụ thể: đến năm 2015, sản lượng khoảng 3,5 tỷ lít bia, 2020: khoảng 4,5 tỷ lít bia và đến 2025: khoảng 5 tỷ lít bia; tầm nhìn đến 2035: khoảng 5,5 tỷ lít bia.
PGS. TS Nguyễn Văn Việt, Chủ tịch Hiệp hội Bia – rượu – nước giải khát Việt Nam (VBA) cho biết: Xu hướng tăng trưởng của ngành bia đang chậm lại (2013: 7,6%, 2014:3,1%). Bên cạnh đó, việc gia nhập các hiệp định kinh tế (AFTA, TPP, cộng đồng ASEAN…) tạo cơ hội cho nhiều tập đoàn nước ngoài, tăng sức ép cạnh tranh lên các DN trong nước, trong khi sự phụ thuộc vào nguyên liệu nước ngoài còn cao. Điều đáng nói, các dự thảo chính sách tác động lên ngành bia như: Luật thuế tiêu thụ đặc biệt, Dự thảo Nghị định quản lý sản xuất, kinh doanh bia, Dự thảo Luật “Phòng chống tác hại lạm dụng các chất có cồn”…
Đáng chú và gây lo ngại nhất đối với các DN trong ngành là “Đề án nâng cao năng lực quản lý nhà nước về ngành bia”, trong đó có quy định dán tem bia. Theo VBA, nếu đề án này được thông qua với yêu cầu bắt buộc dán tem, thì chỉ riêng tiền đầu tư mua máy dán tem của các DN đã khoảng 3.000 tỷ, trong đó Tổng công ty Bia rượu nước giải khát Sài Gòn 645 tỷ, Tổng công ty Bia rượu nước giải khát Hà Nội 495 tỷ, Heineken 240 tỷ... Chưa hết, chi phí dán tem hàng năm (tiền mua tem) sẽ lên đến khoảng 2.000 tỷ nữa. Như vậy, tổng chi phí hàng năm nếu dán tem bia sẽ khoảng 7.000 tỷ. Những chi phí trên sẽ phải tính vào giá sản phẩm và cuối cùng, người tiêu dùng phải gánh. Vì vậy, các DN trong ngành cho rằng việc dán tem bia là không cần thiết, không hiệu quả và gây khó khăn cho DN...
Đối với ngành bia, quy hoạch sản xuất phải luôn gắn với nhu cầu của thị trường, tiếp tục xây dựng nhiều thương hiệu Việt có đủ sức cạnh tranh. Đặc biệt, để ngành bia phát triển và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển kinh tế, Nhà nước cần đưa ra những chính sách phù hợp. Để hạn chế lạm dụng đồ uống có cồn, cần nhận thức đúng đắn của người tiêu dùng cũng như toàn xã hội.
Thanh Hà




















