Dự thảo Nghị định nêu rõ, mức lương tối thiểu tháng theo 4 vùng sẽ tăng thêm từ 250.000–350.000 đồng so với hiện nay. Cụ thể, vùng I là 5.310.000 đồng/tháng, vùng II là 4.730.000 đồng/tháng, vùng III là 4.140.000 đồng/tháng và vùng IV là 3.700.000 đồng/tháng. Đây là mức tăng được tính toán dựa trên sự cân đối giữa nhu cầu cải thiện thu nhập của người lao động với khả năng chi trả của doanh nghiệp, đồng thời cao hơn khoảng 0,6% so với mức sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ đến hết năm 2026.

Song song với đó, dự thảo cũng quy định mức lương tối thiểu theo giờ, được xác định trên cơ sở quy đổi từ mức lương tháng và thời gian làm việc tiêu chuẩn. Theo đó, vùng I là 25.500 đồng/giờ, vùng II là 22.700 đồng/giờ, vùng III là 20.000 đồng/giờ, vùng IV là 17.800 đồng/giờ. Đây là phương pháp tính đã được áp dụng ổn định từ năm 2022 đến nay, phù hợp với khuyến nghị của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO).
Một nội dung quan trọng khác trong dự thảo là việc rà soát, điều chỉnh lại danh mục địa bàn áp dụng mức lương tối thiểu vùng. Bộ Nội vụ cho biết, quá trình sắp xếp đơn vị hành chính thời gian qua đã làm thay đổi phạm vi áp dụng ở một số địa phương, do đó cần có sự cập nhật để đảm bảo tính đồng bộ và phù hợp với thực tiễn phát triển.
Cụ thể, nhiều địa bàn có tốc độ phát triển nhanh, hình thành các khu, cụm công nghiệp, cơ sở hạ tầng được cải thiện, thị trường lao động sôi động, đã được đề xuất chuyển từ vùng lương thấp lên vùng lương cao hơn. Ví dụ, một số phường và xã thuộc thành phố Hải Phòng được điều chỉnh từ vùng II lên vùng I; một số địa bàn thuộc Nghệ An, Quảng Trị, Khánh Hòa được chuyển từ vùng III lên vùng II; nhiều xã tại Quảng Trị, Khánh Hòa được nâng từ vùng IV lên vùng III. Ngược lại, một số xã thuộc Quảng Ninh và Quảng Trị được điều chỉnh giảm xuống vùng thấp hơn để phù hợp với điều kiện thực tế.
Theo Bộ Nội vụ, việc phân vùng lại không chỉ tạo sự công bằng giữa các địa bàn lân cận mà còn phản ánh đúng trình độ phát triển kinh tế - xã hội, qua đó góp phần hình thành mặt bằng tiền lương hợp lý, hạn chế chênh lệch bất hợp lý về giá nhân công giữa các địa phương.
Về căn cứ xây dựng chính sách, Bộ Nội vụ cho biết kinh tế vĩ mô trong năm 2025 dự kiến đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 8%, lạm phát được kiểm soát ở mức khoảng 3,7%/năm, thị trường lao động ổn định và tiếp tục phục hồi. Thu nhập, tiền lương bình quân của người lao động có xu hướng tăng, doanh nghiệp dần củng cố năng lực sản xuất kinh doanh sau giai đoạn khó khăn. Tuy nhiên, mức lương tối thiểu hiện hành được áp dụng từ ngày 1/7/2024 đã dần bị bào mòn bởi tác động của chỉ số giá tiêu dùng (CPI), nếu không điều chỉnh sẽ thấp hơn mức sống tối thiểu khoảng 6,6% vào cuối năm 2026.
Thực tiễn cho thấy, từ năm 2000 đến nay, Chính phủ đã 20 lần điều chỉnh lương tối thiểu, trong đó đa số áp dụng từ ngày 1/1 hằng năm nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp xây dựng kế hoạch sản xuất kinh doanh và tài chính. Dự thảo lần này tiếp tục giữ nguyên thông lệ đó, giúp các đơn vị sử dụng lao động chủ động phương án bố trí nguồn lực.
Bộ Nội vụ nhấn mạnh, đề xuất tăng lương tối thiểu 7,2% từ 1/1/2026 là phương án đã được Hội đồng Tiền lương quốc gia thống nhất kiến nghị. Mức tăng này bảo đảm hài hòa lợi ích giữa người lao động và người sử dụng lao động: vừa góp phần cải thiện đời sống, nâng cao thu nhập của người lao động, vừa tạo điều kiện để doanh nghiệp ổn định sản xuất, duy trì sức cạnh tranh và phát triển bền vững.
Dự thảo Nghị định hiện đang được Bộ Tư pháp thẩm định trước khi trình Chính phủ xem xét, ban hành. Sau khi được thông qua, Nghị định sẽ thay thế quy định hiện hành, đồng thời tiếp tục kế thừa, cập nhật danh mục địa bàn áp dụng từ Nghị định số 128/2025 của Chính phủ, đảm bảo sự thống nhất trong triển khai.
Theo Bộ Nội vụ, đây là chính sách có tác động rộng lớn, liên quan trực tiếp đến quyền lợi của hàng chục triệu người lao động và hàng trăm nghìn doanh nghiệp trên cả nước. Do vậy, quá trình soạn thảo được thực hiện thận trọng, trên cơ sở tham khảo ý kiến các bộ, ngành, địa phương, tổ chức xã hội và giới chuyên gia, nhằm bảo đảm tính khả thi, hiệu quả và phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng vùng, miền.
Thiên Trường






















