
Mô hình cũ đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử
Sau gần bốn thập niên, công cuộc đổi mới đã đưa đất nước ta từ một nền kinh tế khép kín, kém phát triển trở thành một nền kinh tế thị trường năng động, có thu nhập trung bình và hội nhập sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. Tuy nhiên, động cơ của mô hình tăng trưởng cũ - dựa chủ yếu vào vốn, lao động và tài nguyên đang dần cạn kiệt, tài nguyên hữu hạn, năng suất lao động tăng chậm, trong khi áp lực môi trường, năng lượng và già hóa dân số ngày càng lớn.
Trong bối cảnh đó, dự thảo Báo cáo chính trị trình Đại hội XIV của Đảng đã xác lập mô hình tăng trưởng mới với mục tiêu là nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, giá trị gia tăng và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Vấn đề đặt ra là, để trở thành chỉ đạo có sức gợi mở và khả thi, mô hình này cần được làm rõ nội hàm và cấu trúc vận hành, thay vì chỉ liệt kê các yếu tố như khoa học, công nghệ, chuyển đổi số hay chuyển đổi xanh.
Trong suốt gần bốn thập niên qua, tăng trưởng của Việt Nam chủ yếu dựa vào đầu tư công, lao động giá rẻ, khai thác tài nguyên và mở rộng thị trường xuất khẩu. Mô hình này đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử: Giúp đất nước thoát nghèo, hình thành nền công nghiệp cơ bản, ổn định kinh tế vĩ mô và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Tuy nhiên, khi nền kinh tế đã phát triển đến một ngưỡng nhất định, mô hình cũ bắt đầu bộc lộ giới hạn. Năng suất lao động tăng chậm, trung bình dưới 5%/năm, thấp hơn đáng kể so với các nền kinh tế Đông Á trong giai đoạn cất cánh. Năng suất nhân tố tổng hợp (TFP) - chỉ số phản ánh hiệu quả của tri thức và công nghệ - mới đóng góp khoảng 35-40% vào tăng trưởng, trong khi ở Hàn Quốc hay Singapore, con số này đạt 60-70%.
Bước sang kỷ nguyên trí tuệ
Tăng trưởng dựa vào mở rộng đầu vào cũng kéo theo hệ quả tiêu hao tài nguyên, ô nhiễm môi trường và gia tăng bất bình đẳng. Nói cách khác, chúng ta đã đi xa nhờ cơ bắp, nhưng muốn tiến xa hơn, Việt Nam phải bước sang kỷ nguyên của trí tuệ.
Bản chất của mô hình tăng trưởng mới là chuyển dịch nền tảng tạo ra giá trị - từ lao động cơ học sang lao động tri thức, từ đầu tư vật chất sang đầu tư vào con người, công nghệ và thể chế. Có thể khái quát rằng:
Mô hình tăng trưởng mới là mô hình phát triển dựa trên tri thức, công nghệ, đổi mới sáng tạo và nhân lực chất lượng cao, trong đó năng suất tổng hợp (TFP) và giá trị gia tăng được tạo ra chủ yếu nhờ tiến bộ khoa học, dữ liệu, thể chế hiện đại và năng lực sáng tạo của con người.
Nếu mô hình cũ lấy “vốn, lao động, tài nguyên, thị trường” làm động lực, thì mô hình mới lấy “tri thức, công nghệ, thể chế, con người” làm trung tâm. Cấu trúc của mô hình này có thể gồm 5 trụ cột cơ bản:
Động lực mới - khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số, chuyển đổi xanh và kinh tế tri thức.
Thể chế hiện đại - khuyến khích cạnh tranh, bảo vệ tài sản trí tuệ, mở không gian cho sáng tạo và khởi nghiệp.
Nguồn lực con người - phát triển nhân tài, kỹ năng số và văn hóa học suốt đời, coi con người là trung tâm của phát triển.
Hạ tầng và dữ liệu - hạ tầng số, năng lượng sạch và hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia.
Không gian phát triển - các cực tăng trưởng, vùng kinh tế động lực và đặc khu thế hệ mới ngang tầm khu vực và toàn cầu.
Như vậy, thay vì tăng trưởng bằng “số lượng”, mô hình mới hướng tới tăng trưởng bằng chất lượng và năng suất, nơi thể chế, công nghệ và con người kết hợp để tạo nên sức cạnh tranh mới của quốc gia.

Đổi mới từ cách tiếp cận mới
Từ Nghị quyết 31/2021/QH15 đến Báo cáo tổng kết 40 năm Đổi mới, đến Dự thảo báo cáo chính trị Đại hội XIV, tinh thần xuyên suốt vẫn là: phải đổi mới mô hình tăng trưởng. Nhưng nếu không thay đổi cách vận hành thể chế, thì “động lực mới” sẽ khó được khởi động, khơi thông.
Muốn đổi mô hình tăng trưởng, phải bắt đầu từ cách phân bổ nguồn lực: Nhà nước không thể vừa làm trọng tài, vừa làm người chơi. Khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo phải được xem như một hạng mục đầu tư chiến lược trong ngân sách, chứ không chỉ là phong trào. Thể chế đất đai và thị trường vốn phải được cải cách để mở đường cho khu vực tư nhân – động lực tăng trưởng quan trọng nhất – được phát huy. Quan trọng nhất, phân cấp – phân quyền gắn với trách nhiệm giải trình phải trở thành thực chất, để các địa phương năng động có thể hình thành những cực tăng trưởng thật, chứ không phải những khẩu hiệu hành chính.
Như vậy, chúng ta không thể tăng tốc bằng động cơ đã cũ và càng không thể công nghiệp hoá bằng cách huy động thêm vàng hay kéo dài tuổi hưu.
Một nền kinh tế muốn bứt phá không thể trông vào “nguồn lực nhàn rỗi trong dân” hay “sức lao động thêm vài năm”, mà phải dựa vào nguồn lực trí tuệ và thể chế – thứ duy nhất có thể tạo ra năng suất mới và giá trị mới.
Nếu tri thức, khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo không trở thành nền tảng, thì “tăng trưởng hai con số” có khả năng diễn ra trong vài năm chứ khó kéo dài trong dài hạn, như mục tiêu mong muốn.
Đổi mới mô hình tăng trưởng, xét đến cùng, không phải là thay đổi chỉ tiêu GDP, mà là đổi mới tư duy phát triển, nơi Nhà nước kiến tạo môi trường cho sáng tạo, doanh nghiệp được cởi trói và người dân được khơi dậy năng lực thật sự của mình.
Xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự cường
Góp ý vào dự thảo Văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, đại biểu Quốc hội Phạm Trọng Nghĩa đề nghị, dự thảo Báo cáo chính trị cần xác định rõ hơn mục tiêu xây dựng nền kinh tế tự chủ, tự cường trong mô hình phát triển mới với 5 việc cần làm ngay.
Thứ nhất, cần kiểm soát có chiến lược độ mở của nền kinh tế.
Việt Nam là nền kinh tế có quy mô nhỏ nhưng độ mở rất cao. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), Việt Nam thuộc nhóm có tốc độ tăng độ mở nhanh và lớn nhất thế giới. Năm 2025, kim ngạch xuất nhập khẩu ước đạt 882 tỷ USD, gấp 1,7 lần GDP (khoảng 510 tỷ USD).

Độ mở cao là lợi thế, nhưng cũng khiến nền kinh tế nhạy cảm, dễ tổn thương trước biến động toàn cầu, dễ mắc kẹt ở vị trí gia công, giá trị gia tăng thấp và đối mặt nguy cơ rơi vào “bẫy thu nhập trung bình”.
Vì vậy, ông Nghĩa lưu ý đến việc cần kiểm soát có chiến lược độ mở của nền kinh tế, coi đây là chìa khóa bảo đảm phát triển bền vững.
Thứ hai, cần phát triển chuỗi cung ứng nội địa.
Theo đại biểu, doanh nghiệp Việt Nam phải là lực lượng nòng cốt của nền kinh tế tự chủ, tự cường. Do đó, dự thảo Báo cáo chính trị cần bổ sung nội dung ưu tiên doanh nghiệp trong nước tham gia các dự án đầu tư công lớn, nhất là hạ tầng giao thông, công nghệ, năng lượng, nhằm nâng cao năng lực và tạo nền tảng hình thành chuỗi cung ứng nội địa mạnh.
Thứ ba, cần tối ưu hóa thị trường hơn 100 triệu dân.
Thị trường nội địa phải được xem là trụ cột tăng trưởng bằng việc tiếp tục đẩy mạnh phong trào “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”. Cùng với đó là các chính sách giúp doanh nghiệp trong nước khai thác thị trường, làm chủ công nghệ, làm chủ sản phẩm và nâng cao giá trị.
Thứ tư, cần chú trọng đến việc sử dụng hết nguồn lao động sẵn có để tận dụng hiệu quả giai đoạn “dân số vàng” đang dần khép lại. Việc này đòi hỏi kết hợp chính sách vĩ mô (tổng cầu) và vi mô (cung và chất lượng lao động).
Thứ năm, cần thu hẹp chênh lệch vùng miền trong mô hình phát triển mới.
Đại biểu đề nghị khẩn trương tổng kết các cơ chế đặc thù để đề xuất hoàn thiện pháp luật và xây dựng chính sách mới phù hợp với không gian phát triển sau sáp nhập tỉnh. Qua đó, chúng ta có thể thúc đẩy phân bổ nguồn lực hợp lý hơn, bảo đảm phát triển cân bằng.
Bùi Quyền
























