Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,7%.
Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,7%.

Đồng ba tháng trên sàn giao dịch kim loại Luân Đôn (LME) CMCU3 tăng 0,7% lên 9.890,50 USD/tấn, tiến gần hơn đến mức cao nhất trong 10 tuần là 9.913 USD đạt được trong phiên trước.

Hợp đồng đồng tháng 11 được giao dịch nhiều nhất trên sàn giao dịch tương lai Thượng Hải (SHFE) SCFcv1 đóng cửa tăng 0,4% lên 77.740 Nhân dân tệ (11.072,18 USD)/tấn.

Các nhà lãnh đạo Trung Quốc hôm thứ năm đã cam kết triển khai "chi tiêu tài khóa cần thiết" để đạt được mục tiêu tăng trưởng kinh tế trong năm nay là khoảng 5%.

"Đó là câu chuyện vĩ mô và kỳ vọng tích cực đang thúc đẩy giá cả, không liên quan gì đến các yếu tố cơ bản hoặc nhu cầu thực tế" - một nhà giao dịch cho biết.

Đồng LME đã tăng 7,1% trong tháng này và đang hướng đến mức tăng hàng tháng tốt nhất kể từ tháng 4.

Cục Dự trữ Liên bang Mỹ đã cắt giảm lãi suất vào tuần trước, gây áp lực lên đồng USD và khiến kim loại được định giá bằng đồng bạc xanh trở nên rẻ hơn đối với những người nắm giữ các loại tiền tệ khác.

Tuần này, Trung Quốc đã công bố gói kích thích lớn nhất kể từ đại dịch. Đầu phiên, giá đồng đã giảm do hoạt động chốt lời trên cả hai sàn giao dịch.

Một loạt dữ liệu đáng thất vọng từ Trung Quốc trong năm nay đã làm dấy lên lo ngại về sự suy thoái kéo dài về mặt cấu trúc ở quốc gia này, đặc biệt là trong lĩnh vực bất động sản, nơi tiêu thụ một lượng lớn kim loại.

"Thị trường đã tăng rất nhanh. Cần phải có sự thoái lui và củng cố trong ngắn hạn. Nhưng về lâu dài, thị trường sẽ lại tăng. Câu chuyện của Trung Quốc là tích cực" - nhà giao dịch này nói thêm.

Nhôm CMAL3 của LME tăng 0,8% lên 2.557,50 USD/tấn, niken CMNI3 giảm 0,2% xuống 16.760 USD, chì CMPB3 tăng 1,3% lên 2.123,50 USD, kẽm CMZN3 tăng 1,1% lên 3.031 USD, trong khi thiếc CMSN3 giao dịch cao hơn 0,5% ở mức 32.245 USD.

Nhôm SAFcv1 của SHFE giảm 0,1% xuống 20.150 Nhân dân tệ/tấn, thiếc SSNcv1 giảm 1,4% xuống 257.000 Nhân dân tệ, trong khi niken SNIcv1 tăng 0,6% lên 128.450 Nhân dân tệ, kẽm SZNcv1 tăng 0,9% lên 24.710 Nhân dân tệ và chì SPBcv1 tăng nhẹ 0,2% lên 16.705 Nhân dân tệ.

Hà Trần (t/h)