Hiện nay, Trung Quốc đã thực hiện 95% mục tiêu tự túc lương thực (gạo, ngô, lúa mì) nhưng vẫn cho phép nhập khẩu một lượng nhất định thông qua hệ thống hạn ngạch phi thuế quan (TRQ) cho phép các thương nhân trong nước nhập khẩu với mức thuế suất chỉ còn 1% so với mức ngoài hạn ngạch 65%.

Tại thị trường trong nước, giá lúa, gạo tại khu vực ĐBSCL diễn biến từ ổn định đến tăng nhẹ trong tháng qua.

Ảnh minh họa.Ảnh minh họa.

Cụ thể, tại An Giang, lúa IR50404 duy trì ở mức 5.400 đồng/kg; lúa OM 5451 giảm 200 đồng/kg xuống 5.500 đồng/kg; lúa OM 6976 ổn định ở mức 5.600 đồng/kg; lúa gạo thường ổn định ở mức 11.000 đồng/kg; gạo thơm đặc sản jasmine ở mức 14.500 đồng/kg.

Tại Vĩnh Long, lúa IR50404 ướt tăng 200 đồng/kg lên mức 5.700 đồng/kg, lúa khô tăng 100 đồng/kg lên mức 6.000 đồng/kg; lúa hạt dài ướt tăng 200 đồng/kg lên 5.900 đồng/kg, lúa khô tăng 400 đồng/kg lên 6.200 đồng/kg. Tại Bạc Liêu, lúa Đài Thơm 8 ổn định ở mức 5.800-5.900 đồng/kg; lúa OM 5451 ở mức 5.500-5.600 đồng/kg.

Tại Kiên Giang, lúa IR50404 tăng 200 đồng/kg lên mức 5.800-5.900 đồng/kg; lúa OM 6976 tăng 200 đồng/kg lên 6.500-6.800 đồng/kg; lúa OM 5451 tăng 100 đồng/kg lên 6.700-6.900 đồng/kg.

Trong 5 tháng đầu năm, giá xuất khẩu gạo của Việt Nam đã tăng 13% so với cùng kỳ năm 2019, đạt bình quân 485 USD/tấn.

Được biết, giá XK gạo của Việt Nam trong tháng 5/2020 cũng tăng lên mức cao nhất trong nhiều năm qua với giá bình quân đạt 527 USD/tấn, tăng 5,6% so với tháng 4/2020 và tăng 21,4% so với cùng kỳ năm 2019. Trong 5 tháng đầu năm 2020, giá XK gạo của nước ta đã tăng 13% so với cùng kỳ năm 2019, đạt bình quân 485 USD/tấn.

Với mức giá cạnh tranh và xuất khẩu đang tăng mạnh trở lại sau khi gỡ bỏ hạn ngạch, Việt Nam có cơ hội lớn để vượt qua Thái Lan về XK gạo toàn cầu ngay trong năm nay. Theo Bộ Thương mại Thái Lan, xuất khẩu gạo của nước này trong 4 tháng đầu năm 2020 chỉ đạt 2,11 triệu tấn, trị giá 43,046 triệu baht (1,387 tỷ USD), giảm mạnh 32,1% về lượng và 15,7% về trị giá so với mức 3,11 triệu tấn trị giá 51,07 triệu baht (1,62 triệu USD) của cùng kỳ năm 2019.

Ngoài ra, xuất khẩu gạo đang đứng trước cơ hội lớn khi Hiệp định thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA) sắp có hiệu lực. Theo các doanh nghiệp XK gạo, EVFTA có hiệu lực có thể không khiến kim ngạch XK gạo tăng đột biến, song sẽ là cơ hội rất lớn để đa dạng hóa thị trường cho gạo XK. Việc có mặt ở một trong những thị trường có đòi hỏi cao nhất thế giới cũng là cơ hội cho gạo Việt Nam quảng bá thương hiệu và vào được nhiều thị trường khác.

Tính trong 4 tháng đầu năm nay, Philippines đứng vị trí thứ nhất về thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam với 40,5% thị phần, khối lượng đạt 902.100 tấn và giá trị là 401,3 triệu USD, tăng 11,4% về khối lượng và tăng 26% về giá trị so với cùng kỳ năm 2019.

Ngoài ra, xuất khẩu gạo Việt sang các thị trường khác tăng mạnh là: Trung Quốc và Indonesia (gấp 2,7 lần), Đài Loan (tăng 67,9%) và Ghana (tăng 39,3%). Ngược lại, thị trường có giá trị xuất khẩu gạo giảm mạnh nhất là Bờ Biển Ngà (giảm 44,5%).

Về dự báo tình hình thị trường, cơ hội thúc đẩy xuất khẩu trong thời gian tới, vấn đề đáng lưu ý là Philippines đang tìm nguồn nhập khẩu thêm 300.000 tấn gạo để tăng cường kho dự trữ Chính phủ nhằm đối phó với đại dịch COVID-19 và chuẩn bị cho mùa có nguồn cung thấp điểm hằng năm vào quý III.

Bangladesh cũng đang thu mua thêm 200.000 tấn lúa từ vụ thu hoạch đang diễn ra để bảo đảm nguồn cung cho các hoạt động cứu trợ nội địa trong bối cảnh đại dịch COVID-19 đang lây lan ở nước này.

Bộ Công Thương sẽ theo dõi chặt chẽ tình hình cung cầu gạo trong nước và quốc tế; dự báo động thái của các nước XK, nhập khẩu gạo lớn trên thế giới, diễn biến dịch bệnh và thiên tai để kịp thời ứng phó với các thay đổi và báo cáo Thủ tướng Chính phủ xem xét, quyết định phương án điều hành phù hợp với tình hình ổn định mới trong bối cảnh dịch bệnh.

Trang Nguyễn