Chuyển đổi năng lượng là nội dung quan trọng

Theo World Bank, chuyển đổi năng lượng là nội dung quan trọng nhất trong chuyển đổi sang phát thải ròng bằng không tại Việt Nam vì đây là lĩnh vực đóng góp đến hai phần ba lượng khí thải hiệu ứng nhà kính của cả nước, với 60% riêng của lĩnh vực điện do nguồn cung điện than gia tăng nhanh chóng.

Quy hoạch phát triển điện lực VIII giai đoạn 2021-2030 vào năm 2023 (QHĐ8) trình bày lộ trình tham vọng nhằm chuyển đổi cơ cấu sản xuất điện của Việt Nam từ điện than sang điện tái tạo. QHĐ8 sửa đổi vạch ra lộ trình phát triển năng lượng tái tạo mạnh mẽ, với chỉ tiêu 73 GW điện mặt trời vào năm 2030 - tăng trên năm lần so với mục tiêu 12,8 GW trước đó - đồng thời tăng gần gấp đôi chỉ tiêu điện mặt trời từ 21 GW lên 38 GW.

Để bình ổn tốc độ tăng của năng lượng tái tạo, Việt Nam đang ưu tiên hiện đại hóa lưới điện và các giải pháp lưu trữ linh hoạt, bao gồm 18 dự án thủy điện tích năng được lên kế hoạch.

Lĩnh vực giao thông, đóng góp 7% tổng lượng khí thải hiệu ứng nhà kính vào năm 2021, cũng đang trong quá trình khử thải các-bon qua một kế hoạch hành động tập trung vào phương tiện chạy điện và thúc đẩy giao thông công cộng.

Trong ngành nông nghiệp, đóng góp 15% lượng phát thải, Việt Nam đã cam kết cắt giảm phát thải mê-tan 30% vào năm 2030, so với mức năm 2020, phù hợp với các cam kết trong COP26.

Việt Nam đang xây dựng hệ thống giao dịch phát thải (ETS) làm công cụ định giá các-bon, và hệ thống ETS sẽ được thí điểm vào năm 2025 cho ba lĩnh vực chính: Điện, xi-măng và thép.

Chương trình quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả lần thứ ba (VNEEP3) của Việt Nam cũng vạch ra chỉ tiêu giảm tiêu thụ năng lượng từ 8-10% vào năm 2030 so với kịch bản cơ sở.

Chi phí công nghệ sạch giảm mạnh, cụ thể trong lĩnh vực năng lượng, dự kiến sẽ tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi. Đổi mới sáng tạo trên toàn cầu và chi phí công nghệ thay thế để sản xuất điện giảm xuống dự kiến sẽ định hình lại căn bản nhu cầu về nhiên liệu của lĩnh vực năng lượng.

Lộ trình giảm phát thải dự kiến có sự khác nhau giữa các lĩnh vực. Lĩnh vực điện - phát thải lớn nhất sẽ đi đầu, với lượng khí thải dự kiến giảm nhanh trong hai thập kỷ tới. Điện than sẽ bị giảm nhanh chóng và được thay thế bằng điện gió và điện mặt trời có chi phí thấp hơn. Quá trình này sẽ được hỗ trợ qua phát triển lưu trữ bằng pin và lưu trữ tích năng để đáp ứng nhu cầu điện gia tăng, bao gồm sử dụng điện ở các lĩnh vực cuối nguồn như công nghiệp và giao thông vận tải. Cải cách thị trường điện là cần thiết để hình thành hệ thống điện tích hợp cạnh tranh trên toàn quốc, có năng lực quản lý một tỷ lệ lớn năng lượng tái tạo khả biến theo cách đảm bảo hiệu suất. Phát thải công nghiệp có thể giảm trong thời gian tới nhờ những thành tựu về sử dụng điện và tiết kiệm.

Trong lĩnh vực giao thông, khử thải các-bon không chỉ đòi hỏi phải mở rộng mạng lưới đường sắt và giao thông công cộng, mà cả những tiến bộ về nhiên liệu giảm thải các-bon cho các phương thức giao thông khó sử dụng điện. Phát thải của các công trình tòa nhà sẽ giảm qua sử dụng điện, sưởi nóng, và cải thiện vể hiệu quả sử dụng năng lượng. Cuối cùng, các giải pháp dựa vào thiên nhiên - bao gồm tái trồng rừng và khôi phục hệ sinh thái sẽ đóng vai trò quan trọng đề bù đắp lượng phát thải còn lại ở những lĩnh vực khó giảm, giúp Việt Nam hướng tới trung hòa các-bon. Những biện pháp đó, căn cứ vào kết quả và giả định trong mô hình MANAGE, gộp lại sẽ tạo ra chiến lược toàn diện để đạt giảm phát thải bền vững.

Các ước tính sử dụng mô hình kinh tế vĩ mô cho thấy chi phí kinh tế của việc chuyển đổi sang phát thải ròng bằng không nằm trong khả năng kiểm soát. Các ước tính bằng mô hình kinh tế vĩ mô cho thấy GDP sẽ giảm 0,02% so với kịch bản cơ sở vào năm 2030 chủ yếu do tác động của việc giá năng lượng tăng lên, do thay đổi về cơ cấu năng lượng, định giá các-bon, giảm thu nhập và tiêu dùng của hộ gia đình. Thiệt hại kinh tế đó có thể tăng theo thời gian, lên đến 2,76% vào năm 2050, mặc dù tác động dài hạn như thế không có gì chắc chắn, bao gồm tính đến sự phát triển trong tương lai của các công nghệ trung hòa các-bon.

Chuyển đổi năng lượng là nội dung quan trọng nhất trong chuyển đổi sang phát thải ròng bằng không tại Việt Nam
Chuyển đổi năng lượng là nội dung quan trọng nhất trong chuyển đổi sang phát thải ròng bằng không tại Việt Nam

Khuyến nghị cho giai đoạn 2026-2030

Nhằm thúc đẩy giảm phát thải, World Bank đã đưa ra nhiều khuyến nghị.

Về khuyến nghị chung:

Triển khai định giá các-bon: Hệ thống giao dịch phát thải (ETS) và thuế các bon bổ sung nhằm đẩy nhanh chuyển đổi sang các công nghệ giảm thải các-bon.

Thí điểm ETS theo kế hoạch cho ba lĩnh vực chính (điện, thép và xi-măng) theo thời hạn vào năm 2025.

Ban hành thuế các-bon ở mức vừa phải (7,5-15 US$/tấn để bổ sung cho phạm vi ETS, tránh đánh thuế hai lần: Cải cách thuế tiêu thụ đặc biệt nhiên liệu, thuế bảo vệ môi trường để phản ánh hàm lượng các-bon, bắt đầu với than. Bổ sung bằng hệ thống giảm giá để khuyến khích áp dụng công nghệ sạch hơn trong các lĩnh vực gây ô nhiễm như điện.

Ban hành trợ giá xanh để hỗ trợ chuyển đổi sang các công nghệ sạch hơn: Cho phép hoàn thuế, giảm thuế GTGT, hoặc xóa nghĩa vụ đầu tư cho các sản phẩm xanh, như máy móc tiết kiệm năng lượng, để kích cầu và đầu tư của khu vực tư nhân.

Khai thác các thị trường các-bon tự nguyện để thu hút đầu tư khí hậu của khu vực tư nhân: Song song với phát triển hệ thống giao dịch khí thải (ETS) chính thức, hỗ trợ hiện thực hóa thị trường giao dịch các-bon tư nhân bằng cách làm rõ các tiêu chuẩn MRV, phối hợp với các thị trường các-bon toàn cầu và hợp tác với các bên liên quan trên quốc tế, bao gồm các dự án theo Điều 6, nhằm huy động vốn của khu vực tư nhân cho các dự án phát triển bền vững và năng lượng tái tạo.

Triển khai các tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng và các chương trình thay đổi hành vi: Triển khai các quy chuẩn kỹ thuật và các sáng kiến chuyên ngành, như các chiến dịch nâng cao nhận thức người tiêu dùng, nhằm cải thiện hiệu suất năng lượng ở các lĩnh vực công nghiệp, thương mại và nhà ở.

Trong các lĩnh vực công nghiệp, tăng cường các tiêu chuẩn tiết kiệm năng lượng cho phù hợp với các mốc chuẩn quốc tế.

Tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn tài chính xanh: Ban hành các hướng dẫn rõ ràng và cơ chế xác định dự án xanh (ví dụ phân loại xanh). Tăng cường năng lực kỹ thuật và hệ thống xác nhân trong các tổ chức tài chính của Việt Nam nhằm xử lý thiếu hụt kỹ năng đánh giá và quản lý các dự án trái phiếu xanh.

Trao quyền cho khu vực tư nhân đầu tư về giảm nhẹ: Tạo thuận lợi cho công bố thông tin về chính sách khí hậu liên quan đến các thị trường xuất khẩu chủ lực của doanh nghiệp, các yêu cầu của công ty đa quốc gia (MNC), hỗ trợ triển khai các biện pháp thích ứng và đầu tư cho công nghệ giảm nhẹ, cũng như phân tích chi phí - lợi ích cho những hoạt động đầu tư đó. Tăng cường các hệ thống tiêu chuẩn chứng nhận xanh cho các sản phẩm xuất khẩu chủ lực và giúp các doanh nghiệp có được chứng nhận quốc tế.

Về khuyến nghị năng lượng bền vững:

Triển khai QHĐ8 sửa đổi:

Đơn giản hóa quy trình phê duyệt dự án để triển khai QHĐ8: Giảm chậm trễ qua ban hành các quy trình phê duyệt có hạn mức thời gian theo quy định, các nền tảng số để theo dõi, và vai trò thể chế rõ ràng cho các dự án chuyển đổi năng lượng trong QHĐ8.

Áp dụng lập kế hoạch chi phí thấp nhất và làm rõ các quy định đấu thầu cho QHĐ8: Đảm bảo lập kế hoạch linh động theo chi phí thấp nhất để tối ưu hóa về khả năng chi trả và an ninh năng lượng. Đơn giản hóa các phương thức đấu thầu mua sắm trong các văn bản luật và thiết lập các tiêu chí rõ ràng về lựa chọn nhà đầu tư.

Tăng cường các công ty dịch vụ năng lượng (ESCOs) để triển khai đảm bảo hiệu suất: Nâng cao năng lực của các ESCOs qua cải thiện khả năng tiếp cận các cơ chế tài chính, đào tạo kỹ thuật và các quy định tạo thuận lợi để mở rộng quy mô các dự án tiết kiệm năng lượng.

Giao thông bền vững:

Đẩy nhanh giao thông xanh ở các đô thị: Phát triển các tuyến Metro và các hệ thống xe buýt nhanh. Xúc tiến các khu vực giảm phát thải để cải thiện chất lượng không khí.

Hỗ trợ chuyển đổi sang sử dụng xe điện và các phương tiện phát thải thấp: Ban hành các tiêu chuẩn kinh tế tốt hơn về nhiên liệu cho phương tiện với các phương tiện mới sử dụng động cơ đốt trong (xe hơi và xe mô-tô hai bánh). Triển khai các tiêu chuẩn và cơ chế khuyến khích xe phát thải thấp. Đầu tư các trạm sạc công cộng và thí điểm xe buýt chạy điện.

Minh Anh