
Chuyển dịch quy mô và cơ cấu nền kinh tế
Ngược về quá khứ, ở thời điểm Việt Nam đã đi đến những giai đoạn cuối của công cuộc thế kỷ là thống nhất đất nước, dân và quân tỉnh Quảng Ngãi đã chủ động đồng loạt tiến công ở nhiều mặt trận, tiêu diệt toàn bộ hệ thống quân sự và chính trị của địch. Ngày 24/3/1975, chính thức thống nhất hoàn toàn tỉnh Quảng Ngãi, mở ra một chương mới cho mảnh đất núi Ấn – sông Trà. Sau khi thống nhất, Quảng Ngãi tiếp tục hành trình phát triển của mình với chủ yếu là các hoạt động nông nghiệp, giống với đại đa số các khu vực khác của Việt Nam. Tuy nhiên, đã có nhiều manh mún trong việc đầu tư, thu hút phát triển những ngành công nghiệp tại tỉnh nhà.
Ở thời điểm tái lập tỉnh Quảng Ngãi năm 1989, sau khi tách tỉnh Nghĩa Bình thành Quảng Ngãi và Bình Định, giá trị sản xuất công nghiệp của tỉnh Quảng Ngãi đạt khoảng 601 tỷ đồng. Nhìn chung, với những thuận lợi về địa lý và tài nguyên, tỉnh Quảng Ngãi đã có nhiều lợi thế trong việc phát triển nhiều ngành công nghiệp nặng. Những năm 1990, nông, lâm nghiệp và thủy sản chiếm 55,7%, công nghiệp - xây dựng 16,5% và dịch vụ 27,8%. Đến năm 2019, nền kinh tế có sự chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp - dịch vụ, tăng tỷ trọng công nghiệp - xây dựng lên 51,9%, dịch vụ 29,8% và nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm còn 18,3%. Đến năm 2024, giá trị công nghiệp của Quảng Ngãi đã tăng lên hơn 157.000 tỷ đồng (gấp hơn 260 lần năm 1989).
Trong đó, quy mô và cơ cấu của tỉnh Quảng Ngãi cũng có những thay đổi rõ rệt từ khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất cho ra dòng sản phẩm đầu tiên năm 2009. Năm 2007, thu ngân sách của tỉnh Quảng Ngãi đạt khoảng 1.312 tỷ đồng, thì đến năm 2010 (một năm sau khi Nhà máy lọc dầu Dung Quất cho ra dòng sản phẩm thương mại đầu tiên), thu ngân sách đạt 15.553 tỷ đồng (tăng 11 lần), riêng BSR đã đóng góp 14.382 tỷ đồng (chiếm 92,5% thu ngân sách toàn tỉnh).
Ở những năm 2005, huyện Bình Sơn (tỉnh Quảng Ngãi) cũng phát triển nhiều cơ sở hạ tầng, mạng lưới giao thông, cảng biển, nhất là giai đoạn xây dựng Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Để có thể hình thành nhà máy lọc dầu đầu tiên ở Việt Nam, hệ thống mạng lưới giao thông cũng cần được cải thiện để phục vụ công tác vận chuyển các thiết bị siêu trường, siêu trọng. Đồng thời, hệ thống cảng biển phục vụ công tác xuất sản phẩm đường thuỷ của Nhà máy lọc dầu cũng được đầu tư mở rộng, phát triển, góp phần thúc đẩy nhiều công tác đầu tư để khai thác hiệu quả, triệt để lợi thế cảng nước sâu Dung Quất. Qua đó, vận tải biển, kho bãi và dịch vụ logistics cũng theo đó được phát triển mạnh mẽ ở khu vực miền Trung.


Với ước muốn tiếp tục phát triển vươn mình, tỉnh Quảng Ngãi cũng đã đề ra nhiều mục tiêu phát triển, song hành với hàng loạt những công trình, dự án trọng điểm, đặc biệt là 2 đề án lớn là Đề án Trung tâm lọc hóa dầu và năng lượng Quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất cùng Đề án Phát triển huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi thành Trung tâm du lịch biển - đảo đang được nghiên cứu thực hiện. Đặc biệt là Trung tâm lọc hoá dầu và năng lượng Quốc gia tại Khu kinh tế Dung Quất với Nhà máy lọc dầu Dung Quất sẽ là “hạt nhân” của dự án. Đây là một trong những trung tâm có nhiều điều kiện phù hợp để hình thành và mang nhiều ý nghĩa, lợi ích lớn đối với tỉnh Quảng Ngãi.
BSR “vươn mình” cùng Quảng Ngãi
Năm 2008, BSR được thành lập để tiếp nhận, quản lý, vận hành Nhà máy lọc dầu Dung Quất. Hành trình phát triển của BSR cũng gắn liền với sự “vươn mình của tỉnh nhà”. Nhà máy lọc dầu Dung Quất được “đóng chân” tại xã Bình Trị, Bình Thuận huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi. Hơn 16 năm qua, BSR đã phấn đấu, phát triển vươn mình cùng Quảng Ngãi với những đóng góp lớn cho sự phát triển của ngành Lọc hoá dầu nói riêng và tỉnh Quảng Ngãi nói chung. Cụ thể, hành trình phát triển của BSR đã sản xuất và cung ứng ra thị trường trên 99,6 triệu tấn sản phẩm các loại, tổng doanh thu đạt hơn 1,73 triệu tỷ đồng và nộp ngân sách Nhà nước hơn 237 nghìn tỷ đồng.

Năm 2023, BSR lập kỷ lục với việc đóng góp ngân sách tỉnh Quảng Ngãi 16,6 nghìn tỷ đồng, chiếm hơn 55% ngân sách tỉnh (30.667 tỉ đồng). Mới nhất, năm 2024, Quảng Ngãi được xếp vị trí thứ 18/63 tỉnh thành, xếp thứ 5/14 tỉnh miền Trung về tổng thu ngân sách nội địa. Bên cạnh nhiều kết quả đã đạt được trong các công tác đóng góp vào ngân sách Nhà nước, Quảng Ngãi cũng “vươn mình” với hàng loạt những phát triển về cơ sở hạ tầng, đô thị, mạng lưới giao thông. Năm qua, hàng loạt những đề xuất kiến nghị tháo gỡ những nút thắt vì sự phát triển của tỉnh đã được những người đứng đầu tỉnh thực hiện.
Nhà máy lọc dầu Dung Quất nằm tại Khu Kinh tế Dung Quất, qua nhiều năm hoạt động, không chỉ đóng góp trong kinh tế, Nhà máy lọc dầu Dung Quất cũng góp phần trực tiếp vào việc thu hút đầu tư vào tỉnh Quảng Ngãi. Nhìn lại giai đoạn 1996 – 2004, thống kê cho thấy, vốn đầu tư trên địa bàn tỉnh chỉ đạt khoảng 3,7 nghìn tỷ đồng, sau đó tăng lên khoảng 24,5 nghìn tỷ đồng vào năm 2005 - 2008 (cao nhất so với 5 tỉnh Trung Trung Bộ). Nhìn chung, việc thu hút đầu tư vào tỉnh Quảng Ngãi đã có những sự tăng trưởng mạnh, đặc biệt vào giai đoạn Nhà máy lọc dầu Dung Quất được xây dựng. Đỉnh điểm vào năm 2018 - 2019, vốn đầu tư vào tỉnh Quảng Ngãi đã đạt khoảng 43 nghìn tỷ đồng, bằng 1/4 số vốn đầu tư vào miền Trung. Bên cạnh đó, Nhà máy lọc dầu Dung Quất cũng góp phần vào việc thu hút đầu tư từ nước ngoài (FDI) vào Khu kinh tế Dung Quất. Năm 2008, tỉnh có 4 dự án FDI với vốn đăng ký đạt hơn 3 tỷ USD.


Chia sẻ về sự đóng góp của BSR trong tiến trình phát triển kinh tế xã hội tỉnh Quảng Ngãi, bà Bùi Thị Quỳnh Vân - Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh uỷ, Chủ tịch HĐND tỉnh Quảng Ngãi nhận định: “Trong hơn 15 năm vận hành, BSR đã có sự đóng góp tích cực cho sự phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Quảng Ngãi. Góp phần đưa cơ cấu kinh tế và công nghiệp tỉnh Quảng Ngãi phát triển, trở thành tỉnh phát triển khá của miền Trung. Và với cơ cấu Công nghiệp phát triển như thế, tỉnh Quảng Ngãi đang quyết tâm nỗ lực, để tiếp tục tạo điều kiện thuận lợi cho Nhà máy lọc dầu Dung Quất được triển khai mở rộng, nâng cấp để tiếp tục thực hiện tốt sứ mệnh của mình và phát huy hiệu quả hơn nữa trong thời gian tới”.

Hành trình phát triển của BSR cũng gắn liền với những hoạt động vì xã hội. BSR thường xuyên triển khai nhiều hoạt động an sinh xã hội thiết thực, ý nghĩa. Từ khi đi vào hoạt động đến nay, BSR đã thực hiện chương trình an sinh xã hội trên cả nước với tổng kinh phí trên 870 tỷ đồng. Riêng với tỉnh Quảng Ngãi, BSR đã thực hiện hàng trăm công trình, hạng mục an sinh xã hội, nuôi dưỡng Mẹ Việt Nam anh hùng, trồng cây xanh… với tổng kinh phí đóng góp cho việc này là trên 330 tỷ đồng.
PV