Theo thống kê của Tổng cục Hải quan, tính chung 7 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu cà phê Robusta và Arabica giảm; xuất khẩu cà phê chế biến tăng.

Trong 6 tháng đầu năm 2023, Na Uy là một trong số các quốc gia tăng mạnh nhập khẩu cà phê của Việt Nam, tăng 191,6% về lượng và tăng 167,4% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 256 tấn, trị giá 746 nghìn USD. Thị phần cà phê của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Na Uy tăng từ 0,47% trong 6 tháng đầu năm 2022 lên 1,36% trong 6 tháng đầu năm 2023.

Đối với mặt hàng hạt tiêu, lũy kế 8 tháng đầu năm 2023, Việt Nam xuất khẩu hạt tiêu đạt khoảng 184 nghìn tấn, trị giá 600 triệu USD, tăng 14,5% về lượng, nhưng giảm 15,9% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Dự báo xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam thời gian tới sẽ duy trì mức thấp. Nguyên nhân do nguồn cung nội địa không còn dồi dào, nhu cầu từ các thị trường Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) và Trung Quốc chưa thực sự khởi sắc.

Ảnh minh hoạ
Ảnh minh hoạ

Cụ thể như thị trường Mỹ, 6 tháng đầu năm 2023, Việt Nam là nguồn cung hạt tiêu lớn nhất cho Mỹ, lượng đạt 26,62 nghìn tấn, trị giá 117,79 triệu USD, giảm 19% về lượng và giảm 26,6% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Thị phần hạt tiêu của Việt Nam trong tổng lượng nhập khẩu của Mỹ ổn định ở mức 79,1% trong 6 tháng đầu năm 2023. Tương tự, Mỹ giảm nhập khẩu hạt tiêu từ Ấn Độ trong 6 tháng đầu năm 2023, giảm 16,6% về lượng và giảm 15,2% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 2,88 nghìn tấn, trị giá 14,42 triệu USD.

Tính chung 8 tháng đầu năm 2023, giá xuất khẩu bình quân hạt tiêu của Việt Nam ước đạt mức 3.263 USD/tấn, giảm 26,5% so với cùng kỳ năm ngoái. Về cơ cấu chủng loại, trong 7 tháng đầu năm 2023, xuất khẩu hạt tiêu đen tăng về lượng, nhưng giảm về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái; các chủng loại hạt tiêu đen xay, hạt tiêu trắng và hạt tiêu trắng xay giảm cả về lượng và trị giá.

Chè cũng là một trong những sản phẩm xuất khẩu truyền thống của Việt Nam, song thời gian qua hoạt động xuất khẩu vẫn còn hạn chế cả về sản lượng và kim ngạch. Theo ước tính, xuất khẩu chè của Việt Nam 8 tháng đầu năm 2023 ước đạt 71 nghìn tấn, trị giá 122 triệu USD, giảm 14,1% về lượng và giảm 16,4% về trị giá so với cùng kỳ năm 2022.

Giá chè xuất khẩu bình quân trong 8 tháng đầu năm 2023 ước đạt 1.727,4 USD/tấn, giảm 2,6% so với cùng kỳ năm 2022. Theo tổng hợp dữ liệu từ Trung tâm Thương mại quốc tế giai đoạn năm 2018 - 2022, Đức là thị trường nhập khẩu chè lớn thứ 7 trên thế giới. Đây là thị trường lớn để Việt Nam khai thác đẩy mạnh xuất khẩu chè. Lý do vì điều kiện khí hậu ở EU không sản xuất chè nên Đức hoàn toàn lệ thuộc vào việc nhập khẩu sản phẩm này từ các nước khác.

Đáng chú ý, ngoài việc nhập khẩu chè để tiêu thụ nội địa, Đức còn là nhà tái xuất khẩu chè lớn, nghĩa là nước này đóng vai trò quan trọng như là cổng vào EU. Theo số liệu từ Cơ quan thống kê châu Âu (Eurostat), 5 tháng đầu năm 2023, Đức nhập khẩu chè đạt 28,9 nghìn tấn, trị giá khoảng 100 triệu USD. Giá chè nhập khẩu bình quân vào thị trường Đức trong 5 tháng đầu năm 2023 đạt 4.441,9 USD/tấn, tăng 2,8% so với cùng kỳ năm 2022.

Tuy nhiên hiện nay, Việt Nam mới chỉ là thị trường cung cấp chè lớn thứ 19 cho Đức, lượng chè nhập khẩu từ Việt Nam chỉ chiếm 0,4% tổng lượng chè nhập khẩu của Đức. Nguyên nhân là do thị trường Đức cũng như thị trường khác trong khối EU có mức độ đòi hỏi cao về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm.

Do đó, để đẩy mạnh xuất khẩu chè tới thị trường Đức, doanh nghiệp Việt Nam nên chú trọng hơn đến việc nâng cao chất lượng chè, đẩy mạnh mô hình sản xuất chè an toàn; phát triển, nâng cao chất lượng các sản phẩm chè mới và chè truyền thống; xây dựng thương hiệu, đầu tư công nghệ nhằm sản xuất sản phẩm chè đạt tiêu chuẩn theo những quy định về chất lượng, an toàn vệ sinh thực phẩm của EU.

Tâm An