Theo Kế hoạch, mục tiêu đến năm 2025, tỉnh Lào Cai sẽ quản lý chặt chẽ diện tích rừng tự nhiên hiện có, hạn chế tối đa chuyển mục đích sử dụng rừng tự nhiên sang mục đích khác, từng bước hạn chế tình trạng suy thoái rừng và suy thoái đất.
Đến năm 2030, Lào Cai cơ bản đẩy lùi tình trạng mất rừng, suy thoái tài nguyên rừng, suy thoái đất và sa mạc hóa, bảo đảm hài hòa phát triển sản xuất nông lâm nghiệp bền vững gắn với phát triển nông nghiệp, nông thôn, đóng góp hiệu quả vào việc thực hiện cam kết giảm phát thải khí nhà kính.
Diện tích rừng tự nhiên nghèo được phục hồi và nâng cấp chất lượng đạt 10% vào năm 2025, đạt 20% vào năm 2030, góp phần giảm tỷ lệ diện tích rừng tự nhiên nghèo, tăng tỷ lệ diện tích rừng tự nhiên trung bình và giàu. Diện tích rừng được cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững đạt trên 20.000 ha vào năm 2025, đạt 35.000 ha vào năm 2030.
Địa phương thực hiện thể chế, chính sách thúc đẩy phát triển sản xuất và tiêu dùng các sản phẩm nông lâm nghiệp bền vững không gây mất rừng, suy thoái đất và sa mạc hóa; phát triển kinh tế nông lâm nghiệp theo hướng đa mục đích, phát thải thấp, kinh tế tuần hoàn và kinh tế xanh; nâng cao hiệu quả bảo tồn đa dạng sinh học và năng lực phòng hộ; nâng cao năng suất, hiệu quả kinh tế, tính bền vững của rừng trồng và cây trồng nông nghiệp; nâng cao tính chống chịu, giảm thiểu tính dễ bị tổn thương do biến đổi khí hậu.
Thực hiện Kế hoạch nhằm: Đóng góp trực tiếp vào mục tiêu phát triển bền vững nông nghiệp, nông thôn, các mục tiêu về giảm phát thải khí nhà kính và thích ứng với biến đổi khí hậu, bảo tồn đa dạng sinh học, quản lý rừng bền vững, chuyển đổi sang nền kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; thúc đẩy phát triển sinh kế bền vững cho người dân và cộng đồng địa phương, đảm bảo an ninh lương thực và bảo vệ môi trường.
Theo đó, từ nay đến năm 2030, tỉnh Lào Cai tập trung triển khai thực hiện 6 nhiệm vụ chính:
Bảo tồn và đẩy nhanh quá trình phục hồi rừng, các hệ sinh thái trên cạn, góp phần thực hiện Tuyên bố Thập kỷ 2021 - 2030 là Thập kỷ Liên hiệp quốc về phục hồi hệ sinh thái; đánh giá hiện trạng rừng và đất rừng có tranh chấp, chồng lấn giữa lâm nghiệp và lĩnh vực khác; xây dựng và triển khai kế hoạch giải quyết các tranh chấp về rừng và đất, nhất là đối với rừng và đất có nguồn gốc từ các nông, lâm trường quốc doanh; kiểm soát chặt chẽ, có hiệu quả việc chuyển mục đích sử dụng rừng sang mục đích khác; xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về đa dạng sinh học rừng;
Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách thương mại trong nước và quốc tế, thúc đẩy phát triển sản xuất và tiêu dùng hàng hóa bền vững để đạt được lợi ích chung, không làm mất rừng và suy thoái đất;
Giảm thiểu tình trạng dễ bị tổn thương của rừng và đất; tăng cường khả năng phục hồi, cải thiện sinh kế nông thôn thông qua trao quyền cho cộng đồng, củng cố hệ thống quản lý đất, phát triển nông nghiệp bền vững, nâng cao giá trị đa mục đích của rừng; đồng thời đảm bảo các quyền của người dân, các cộng đồng địa phương theo quy định của pháp luật Việt Nam và thông lệ quốc tế; thực hiện chính sách chi trả dịch vụ lưu giữ hấp thụ các bon rừng; triển khai cơ chế trao đổi, bù trừ tín chỉ các bon rừng để đáp ứng các yêu cầu của thị trường các bon trong nước và quốc tế;
Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chính sách, chương trình phát triển nông nghiệp theo hướng bền vững, bảo đảm an ninh lương thực và bảo vệ môi trường; đẩy mạnh thí điểm và nhân rộng các mô hình sản xuất nông nghiệp mới, các vùng sản xuất chuyên canh, đáp ứng yêu cầu của thị trường (nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn, nông nghiệp thông minh, nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp kết hợp công nghiệp, dịch vụ...); xây dựng, phát triển thương hiệu, chỉ dẫn địa lý và truy xuất nguồn gốc sản phẩm nông, lâm sản không gây mất rừng và suy thoái rừng;
Tăng cường khả năng tiếp cận, huy động, sử dụng có hiệu quả nguồn lực tài chính trong nước và quốc tế, hợp tác công tư để phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và quản lý rừng bền vững, bảo tồn và phục hồi các hệ sinh thái, hỗ trợ cộng đồng dân cư địa phương và đồng bào dân tộc thiểu số;
Lồng ghép các nguồn tài chính nhằm hạn chế tình trạng mất rừng và suy thoái rừng, có các cơ chế, chính sách hiệu lực, hiệu quả để đẩy nhanh quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế có khả năng phục hồi và đạt được các mục tiêu quốc tế về quản lý rừng, sử dụng đất bền vững, bảo tồn đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất được đưa ra tại Hội nghị về Biến đổi khí hậu của Liên hiệp quốc (COP26) vào tháng 11/2021. Tổng cộng có 143 quốc gia đã ký tuyên bố, chiếm hơn 90% diện tích rừng trên thế giới. Nỗ lực này, nhằm mục đích “ngăn chặn và đảo ngược tình trạng mất rừng và suy thoái đất vào năm 2030, đồng thời mang lại sự phát triển bền vững và thúc đẩy chuyển đổi nông thôn toàn diện”.
Nguyễn Mạnh