Theo thạc sỹ, luật gia Ngô Doanh, sinh ít con hoặc không sinh con là xu hướng đang diễn ra và tác động xấu đến chính sách “Dân số và phát triển”.

Thực trạng này đang xảy ra rõ nét ở thành phố lớn như TP. HCM, với tỷ lệ sinh thấp nhất cả nước. Có rất nhiều lý do khiến các cặp vợ chồng trẻ ngày nay ngại sinh con, sợ sinh con, thậm chí còn có xu hướng người trẻ “lấy thú cưng làm niềm vui.
“Tôi lấy ví dụ một thực tế hiện nay, ở TP. HCM và Hà Nội cũng như các đô thị lớn, người lao động thu nhập bình quân từ 6-12 triệu đồng/tháng, cha mẹ nếu nuôi 2 người con nữa sẽ không đủ trang trải chi phí cơ bản để nuôi con ăn học. Đó là chưa nói đến nhiều cặp vợ chồng còn phải trang trải tiền thuê nhà, lễ Tết, đi lại thăm quê, ma chay hiếu hỷ…”, ông Doanh chia sẻ.
Nguyên nhân chính củ thực trạng này là do áp lực về kinh tế, việc làm, nhà ở, chi phí học hành, lo ngại gián đoạn sự nghiệp… Khi nhiều người trẻ có tâm lý không muốn sinh con thì đó không còn là chuyện của cá nhân mà sẽ gây ranhiều hệ lụy lâu dài cho xã hội. Đặc biệt, mức sinh thấp kéo dài sẽ làm suy giảm quy mô dân số, thiếu hụt lực lượng lao động, đẩy nhanh tốc độ già hóa dân số, chi phí chăm sóc sức khỏe và các chi phí xã hội khác cao hơn...
Việt Nam đang trải qua quá trình giảm sinh nhanh hơn so với thế giới. Trước đây, mỗi phụ nữ ở thành thị sinh trung bình hơn 1,7 con, nhưng trong 2 năm trở lại đây, con số này giảm xuống dưới 1,7. Ở nông thôn, tỷ lệ sinh năm 2024 cũng dự kiến giảm xuống dưới mức sinh thay thế. Mức sinh thấp không chỉ diễn ra ở một số đô thị, nơi có điều kiện kinh tế phát triển mà còn xuất hiện ở nhiều tỉnh có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Mức sinh thấp là một trong những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến già hóa dân số và dân số già. Mức sinh giảm, tỷ lệ trẻ em trong tổng dân số giảm nên tỷ lệ người trong độ tuổi lao động và người cao tuổi tăng lên, dẫn đến già hóa dân số, thiếu hụt lao động, ảnh hưởng đến an sinh xã hội. Đây là vấn đề đáng báo động.

Theo ông Lê Thanh Dũng, Cục trưởng Cục Dân số, Bộ Y tế, mức sinh thay thế là mức sinh trung bình của người phụ nữ trong toàn bộ cuộc đời của mình, sinh đủ số con để thay mình thực hiện chức năng sinh đẻ và duy trì nòi giống. Mức sinh thay thế là khi tổng tỷ suất sinh đạt 2,1 con/phụ nữ.
Khi mức sinh giảm thấp dẫn tới suy giảm quy mô dân số, cơ cấu tuổi của dân số trong tương lai, suy giảm nhóm dân số trong độ tuổi lao động; tác động mạnh vào quá trình di cư, tăng nhanh quá trình già hóa dân số, mất cơ hội tận dụng cơ cấu dân số vàng…
"Việt Nam đang có xu thế giảm mức sinh thay thế, mặc dù chưa ở mức báo động nhưng điều này chắc chắn sẽ trở thành vấn đề lớn nếu chúng ta không có giải pháp can thiệp từ bây giờ", ông Lê Thanh Dũng cảnh báo.
Tiến sỹ, bác sỹ Hoàng Tú Anh, Giám đốc Trung tâm Sáng kiến Sức khỏe và Dân số (CCIHP) nêu quan điểm, Việt Nam là một trong những nước có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Do vậy, việc bỏ các hạn chế về số con là một việc phù hợp. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý là việc đặt ra các quy định về số con, dù là ở con số nào cũng là không phù hợp. Việc quyết định số con là quyền sinh sản của các cặp vợ chồng. Nhà nước ở bình diện vĩ mô cần có các chính sách để đảm bảo quyền, mong muốn của các gia đình phù hợp và đóng góp hiệu quả vào sự phát triển chung của đất nước. Cần nhiều các chính sách hơn là việc chỉ đặt ra quy định là sinh bao nhiêu con.
Bà Tú Anh cũng cho biết thêm, hiện nay có rất nhiều lý do khiến các cặp vợ chồng trẻ ngại sinh con, sự lo ngại ấy rất đa dạng, có thể do hoàn cảnh gia đình, điều kiện kinh tế, nơi sinh sống, truyền thống gia đình, giá trị của bản thân… Do vậy, để các chính sách phù hợp và hiệu quả, trước hết, nhà nước cần thực hiện ngay các nghiên cứu để biết được nhu cầu sinh con và sự lo lắng của các cặp vợ chồng rồi dựa vào đó để đưa ra chính sách. Để thực hiện được chủ trương này của Nhà nước cũng cần sự chung tay của nhiều ngành, nhiều cấp.

Bà Tú Anh đưa ra ví dụ, một trong những nơi có đông người lao động trẻ, các cặp vợ chồng trẻ và có thể gặp khó khăn trong việc sinh con và chăm sóc con là các khu công nghiệp. Nhiều cặp vợ chồng không dám sinh con hoặc sinh con xong thì phải gửi con về quê nhờ bố mẹ, ông bà chăm sóc vì các khu công nghiệp này không có sẵn nhà trẻ. Các nhà trẻ tư hoặc nhà trẻ tự phát lại thường đắt hoặc không đảm bảo chất lượng.
Như vậy, Nhà nước phải đưa quy định về việc quy hoạch các khu công nghiệp bắt buộc phải có nhà trẻ, trường học, cơ sở y tế, hoặc các doanh nghiệp tuyển dụng lao động phải đảm bảo cung cấp các dịch vụ này cho người lao động. Nhà nước cũng cần có chính sách khuyến khích với các doanh nghiệp và đảm bảo được các tiêu chí này. Đồng thời, cần tuyên truyền để các doanh nghiệp thấy rằng, nếu đảm bảo được các dịch vụ này cho người lao động thì họ sẽ có lực lượng lao động khỏe mạnh hơn, ổn định và bền vững hơn.
Bên cạnh đó là việc đánh giá lao động và thưởng cho người lao động trong thời gian nghỉ sinh. Việt Nam có chính sách nghỉ sinh tương đối tốt và phụ nữ mang thai cũng được khám thai chăm sóc trước sinh tốt, nhưng ở hầu hết các cơ quan, xí nghiệp, phụ nữ nghỉ sinh không được xét hạng lao động tốt, do vậy họ sẽ không được hưởng các chế độ khen thưởng tương ứng.
Đây là một điều rất thiệt thòi cho người phụ nữ. Nếu Nhà nước coi việc các cặp vợ chồng sinh con không phải chỉ để cho gia đình của họ mà cũng là nghĩa vụ với đất nước thì cần thay đổi điều này.
H.Dương(t/h)
























