
Sau khi sáp nhập 3 tỉnh Ninh Bình, Hà Nam, Nam Định, quy mô và động lực xuất khẩu của tỉnh Ninh Bình đã tăng lên đáng kể. Tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng 2,5 lần, từ 9,16 tỷ USD (năm 2021) lên ước đạt 22,75 tỷ USD (năm 2025), với tăng trưởng bình quân 25%/năm. Ninh Bình hiện hội tụ lợi thế đa dạng trong các ngành công nghiệp sản xuất, chế biến, dệt may, cơ khí, vật liệu xây dựng, và chế biến nông - thủy sản. Đến nay, Ninh Bình đã có trên 1.100 doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất nhập khẩu trên địa bàn tỉnh.
Ninh Bình đặt mục tiêu và định hướng trong tâm giai đoạn 2026 – 2030: Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ổn định, tập trung vào các sản phẩm chủ lực có lợi thế như: Hàng công nghiệp chế biến khoảng 99,675%; Hàng nông sản, thực phẩm chế biến 0,25%; Hàng tiểu thủ công nghiệp 0,075%.
Dự kiến các mặt hàng chủ lực dự kiến đạt kim ngạch lớn vào năm 2030: Linh kiện điện tử đạt 23,17 tỷ USD, tăng trưởng bình quân 16,16%/năm; Máy tính và linh kiện máy tính đạt 2,8 tỷ USD; Hàng may mặc ước đạt 4,2 tỷ USD; Giày dép ước đạt 2,5 tỷ USD; Ô tô và linh kiện ô tô dự kiến đạt 1 tỷ USD.
Tỉnh Ninh Bình cũng sẽ củng cố, mở rộng và đa dạng hóa thị trường, chủ động tham gia chuỗi giá trị hàng hoá toàn cầu, bao gồm: ASEAN: Thị trường hàng đầu, tập trung đẩy mạnh xuất khẩu nhóm hàng công nghiệp chế biến, chế tạo, dệt may, giày dép, linh kiện điện tử, xi măng - clinker, ô tô và linh kiện ô tô. Châu Âu (EU, EAEU): Tận dụng tối đa các FTA như EVFTA để mở rộng thị phần tại Đức, Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha. Thúc đẩy xuất khẩu may mặc, da giày, linh kiện điện tử, và nông sản chế biến. Châu Mỹ (Hoa Kỳ, CPTPP): Tiếp tục cập nhật thông tin thị trường, tận dụng CPTPP để mở rộng sang Canada, Mexico, Chile. Tập trung vào linh kiện điện tử, ô tô, may mặc, da giày, và thủ công mỹ nghệ. Đông Bắc Á (Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc): Tận dụng FTA, tăng cường xuất khẩu may mặc, linh kiện ô tô, camera modul, nông sản chế biến, và linh kiện điện tử.
UBND tỉnh Ninh Bình cũng đưa ra các giải pháp toàn diện để nâng cao năng lực cạnh tranh và phát triển chuỗi cung ứng bền vững như:
Cải thiện Môi trường Kinh doanh: Triển khai cải cách thủ tục hành chính, đặc biệt trong đầu tư, xuất nhập khẩu, thuế, và tăng cường phối hợp giữa các sở, ngành;
Ứng dụng khoa học công nghệ: Khuyến khích đầu tư công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hóa, và đẩy mạnh ứng dụng thương mại điện tử trong hoạt động xuất khẩu. Đồng thời, ưu tiên các dự án về vật liệu mới, sản phẩm thân thiện môi trường gắn với chuyển đổi xanh;
Phát triển nguồn nhân lực: Tổ chức đào tạo về kiến thức pháp luật quốc tế, nghiệp vụ xuất nhập khẩu, kỹ năng xúc tiến thương mại và xây dựng thương hiệu. Phát triển Logistics: Kêu gọi, thu hút đầu tư các dự án hạ tầng logistics, cảng cạn (ICD), kho ngoại quan, và dự án xây dựng cảng nước sâu Ninh Cơ để giảm chi phí vận chuyển và tăng sức cạnh tranh.
Nguyễn Kiên























