Trước đó, tháng 9/2024, NSƯT, Đạo diễn Nguyễn Tài Văn cũng mang về cú đúp cánh diều là Cánh diều vàng cho phim khoa học và Cánh diều vàng cho quay phim khoa học với tác phẩm “Vì sao Sơn Đoòng”, thêm vào bộ sưu tập giải cánh diều vàng của mình.

NSƯT, Đạo diễn Nguyễn Tài Văn chia sẻ:

Các cụ xưa có câu “Có công mài sắt có ngày nên kim”. Nghề phim ảnh quá xa vời với những người quanh năm chân lấm tay bùn ở vùng chiêm trũng xứ Thanh thế hệ 8X như chúng tôi. Tuy nhiên, năm 1999 là thời điểm tôi bắt đầu bén duyên với nghề phim ảnh và truyền hình. Từ lúc chập chững vào nghề đến lúc tìm được chỗ đứng với nghề cũng phải mất hơn 10 năm học - làm - rồi học quay phim, thạc sỹ nghệ thuật Điện ảnh, và rồi đến giờ tôi mới bén duyên với nghiệp đạo diễn phim tài liệu, phim khoa học của VTV.

Bắt đầu những bước chập chững vào nghề từ năm 2002 ở Ban Khoa giáo của VTV, những bước đi đầu đời có nhiều cú ngã đau đớn tưởng chừng không trụ được với nghề, nhưng bằng sự đam mê học hỏi những người anh, người thầy đi trước, tôi đã khẳng định được mình tại VTV với công việc quay phim, với phương châm: Phải cho khán giả thưởng thức được những khuôn hình đẹp và đưa được cái tôi của mình vào khuôn hình và từng chương trình mà mình cầm máy.

Năm 2009, tôi bắt đầu chuyển sang học thạc sỹ và nghiên cứu chuyên sâu về phim tài liệu, phim tài liệu khoa học. Đó cũng là khoảng thời gian tĩnh tâm để tôi nhìn lại, tổng kết lại những gì đã học được, và cũng là khoảng thời gian quý báu để tôi tìm hiểu và học hỏi những cách làm phim của các nhà làm phim quốc tế: Thật ngỡ ngàng, choáng ngợp với cách các nhà làm phim quốc tế họ làm, thấy mình đang lạc hậu với họ quá nhiều (công nghệ yếu, thiếu kinh phí và trang thiết bị máy móc, tính chuyên nghiệp chưa cao…). Cũng từ những nghiên cứu học hỏi đó, tôi thiết nghĩ phải cố gắng làm được một phần nhỏ như họ.

Sau khi hoàn thành luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ năm 2012 cũng là thời điểm tôi được sự tin quý của lãnh đạo Ban Khoa giáo cho làm những bộ phim tài liệu, phim khoa học đầu tiên với vai trò đạo diễn. Và sự bất ngờ lớn nhất với phim đầu tay làm đạo diễn phim tài liệu thể loại phim khoa học, sau khi có những tác phẩm lên sóng thì kỳ liên hoan phim đầu tiên với vai trò làm đạo diễn tôi được hội đồng liên hoan phim cánh diều của hội điện ảnh đánh giá và trao cú đúp Cánh diều vàng cho phim khoa học, và Cánh diều vàng cho đạo diễn phim khoa học với phim “Chuyện của đá” tại kỳ liên hoan phim cánh diều vàng năm 2013.

Đúng là không có sự đam mê và nhiệt huyết thì không có thành công. Để có thể hoàn thành tập phim Chuyện của đá vào thời điểm đó, tôi đầu tư cho sản xuất phim hơn 300 triệu (thời điểm bấy giờ là một khoản tiền lớn), chi phí sản xuất tiền kỳ hơn 20 ngày ghi hình tại Hà Giang, 60 triệu tiền chi phí làm đồ họa, và đặc biệt hơn là lần đầu tiên có cảnh bay flycam trên cao nguyên đá Đồng Văn, Hà Giang (thời điểm đó, có được chiếc flycam là cả một vấn đề lớn). Câu chuyện chế và lắp ráp flycam của tôi là cả một hành trình dài, nguyên chiếc flycam bay lần đó tốn hơn 100 triệu đồng để mua thiết bị lắp ráp, chưa kể mua máy móc gắn trên đó để ghi hình vì thiết bị của VTV thời điểm đó còn là những máy chuyên dụng nặng nề không thể đưa lên thiết bị flycam được. Khi đó tôi nhận ra một điều, người ta chỉ có thể làm được những tác phẩm có giá trị, khi thực sự yêu nghề và thể hiện tình yêu ấy bằng thái độ dũng cảm, dấn thân. Bởi thù lao, nhuận bút chẳng mấy khi tương xứng. Bởi giải thưởng sau đó, nếu có, hiếm khi đi kèm với giá trị vật chất ngang tầm. Như dân trong nghề thường nói vui, “chưa ráo mồ hôi đã hết tiền”. Trên trường quay hay ngoài hiện trường, đa phần các đạo diễn, nhà quay phim mà tôi từng biết thường phô bày rất nhiều trạng thái cảm xúc, từ đăm chiêu, tranh luận đến quát tháo, nổi giận… Bởi là đạo diễn, họ là “ông vua trường quay”. Là quay phim, họ phải chịu hoàn toàn trách nhiệm về chất lượng kỹ thuật và nghệ thuật của hình ảnh. Trọng trách lắm, áp lực nhiều, không cáu kỉnh mới là chuyện lạ. Nhưng với tôi, luôn có một niềm đam mê cháy hết mình cho tác phẩm. Say nghề, mê việc, không nề hà bất kỳ khó khăn, gian khổ, thậm chí hiểm nguy nào tôi cũng luôn khiến người xung quanh có cảm giác nhẹ nhõm, dễ chịu như đang cùng tôi tham gia một trò chơi vô cùng hấp dẫn và thú vị. Không tranh cãi, chẳng to tiếng, tôi luôn cần mẫn di chuyển như con thoi giữa các thành phần trong đoàn làm phim, kết nối và vận hành nhịp nhàng, chẳng có vẻ gì vất vả.

Hành hành trình làm phim tài liệu - khoa học đáng nhớ của tôi là trong chuyến làm phim ở hang động tự nhất lớn nhất thế giới Sơn Đoòng. Nhờ có phim tài liệu - khoa học “Vì sao Sơn Đoòng” nên ở Việt Nam, hiện tôi là người đang nắm giữ kỷ lục với 6 lần chinh phục Sơn Đoòng. Làm phim trong hang động, với địa hình hiểm trở, tối thui, không hề nhìn thấy ánh sáng mặt trời càng cực khổ trăm lần. Với “Vì sao Sơn Đoòng”, đoàn làm phim phải khuân vào hang động kỳ vĩ này cả tấn thiết bị, 6 chiếc lycam, có lúc đến cả 100 người phục vụ cho đoàn làm phim. Vừa điều khiển thiết bị flycam, vừa kết nối 3 máy quay và chỉ đạo vận hành cùng lúc 8 chiếc đèn daylight kèm 8 máy nổ, nhiều lúc bản thân tôi còn phải trực tiếp ôm máy. Sau mỗi ngày quay, khi cả đoàn làm phim mệt mỏi chìm vào giấc ngủ, chỉ còn lại tôi xoay mòng mòng giữa cả đống ổ điện như ma trận quanh mình, sao chép dữ liệu vào máy tính, xoá thẻ nhớ, sạc pin máy quay, sạc bộ đàm liên lạc… Tôi luôn tự đề ra cho bản than mình rằng, để có được những hình ảnh đẹp nhất, chính bản thân mình luôn phải tha lôi cả đống máy móc thiết bị theo cùng, thừa còn hơn thiếu, tôi chấp nhận mang vác mọi loại máy quay cồng kềnh theo suốt cả hành trình, thậm chí chỉ để ghi hình một cảnh duy nhất. Những chuyến tác nghiệp ở ngoài phía Bắc có xe thì dễ cho vận chuyển thiết bị, còn những chuyến công tác ở phía Nam, đoàn của tôi luôn quá cước tới 150 cân khi lên máy bay.

Với phim tài liệu khoa học nghệ thuật thì quá trình sản xuất tiền kỳ rất quan trọng, đòi hỏi phải đầu tư rất nhiều. Bộ phim “Vì sao Sơn Đoòng” có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tài liệu khoa học và nghệ thuật của ánh sáng, với những cảnh quay được chiếu sáng và đầu tư rất lớn từ phía VTV, mà đến những nhà làm phim chuyên nghiệp của quốc tế khi làm phim về hang động lớn nhất thế giới này cũng không mang vào đủ được thiết bị cho những cảnh quay công phu, lột tả vẻ đẹp kỳ vĩ của hang động dài hơn 4km này.

Bên cạnh đó, việc ứng dụng công nghệ mới vào việc làm phim cũng tạo nên yếu tố đặc biệt cho phim. Do trước khi khởi quay, tôi đã có chuyến đi khảo sát địa hình Sơn Đoòng trong vòng 1 tuần. Vì thế, tôi đã có cơ hội biết trước được những điểm mình cần phải bố trí các thiết bị chiếu sáng, những cụm cảnh nào là tiêu biểu cần phải nhấn mạnh để làm nổi bật được sự kỳ vĩ của Sơn Đoòng. Vì vậy, trong quá trình tiến hành ghi hình chính thức ở những chuyến sau, tôi không mất thời gian vào tìm góc máy mà chỉ đầu tư thời gian phối hợp cùng với các thành viên trong ê kíp để lột tả được toàn bộ khung cảnh đặc biệt ở Sơn Đoòng phục vụ nội dung phim.

Thực tế hiện nay, bay flycam không còn khó khăn như những chuyến làm phim của tôi trong hang Sơn Đoòng vì công nghệ mỗi lúc càng được nâng cao và chất lượng hơn. Nhưng quay phim bằng flycam trong lòng hang tối không có ánh sáng, không có được định vị GPS như Sơn Đoòng lại là thử thách rất khó đối với người điều khiển thiết bị bay này. Đây cũng là lần đầu tiên tôi đứng trước những thử thách như vậy. Có những đoạn hang rộng có thể đậu vừa 2 chiếc Boing 777 nhưng có đoạn lại rất nhỏ và hẹp, các thạch nhũ trong hang thì nhô ra thụt vào, thiết bị bay của mình sẽ va và rơi rụng bất cứ lúc nào. Và trong một chuyến ghi hình lần thứ hai, tôi cũng đã đâm vào vách hang 2 chiếc, chúng tôi đã phải rất vất vả để thực hiện được cảnh quay, nhưng vẫn còn nhiều điều tiếc nuối khi không thực hiện được đúng 100% như ý đồ đề ra ban đầu. Còn đối với thiết bị scan 3D, đây là lần đầu tiên ê-kíp đưa ứng dụng công nghệ này vào khai thác để làm phim. Thiết bị dùng một chùm tia lazer để quét và thu lại những gì đang có trong một khoảng cách. Máy của chúng tôi có khoảng cách thu được là 330m. Những gì mà tia laser va đập lại thì thiết bị đều thu nhận được, sau đó hình ảnh sẽ được tập hợp và dựng lại bằng phần mềm chuyên dụng, tạo thành mô hình hang Sơn Đoòng như thật. Mô hình 3D này sẽ được ứng dụng vào phim, giúp cho những người làm phim có thể mô phỏng lại sự kỳ vĩ của hang Sơn Đoòng giúp tới khán giả những người chưa có điều kiện đặt chân đến Sơn Đoòng, giúp họ có cảm giác như đang đi du lịch ở đó. Độ chính xác của scan 3D là 0,2mm, mang đến những hình ảnh với góc cạnh rất chi tiết, giúp ghi lại các điểm khuất trong điều kiện ánh sáng yếu. Thiết bị này giúp những người làm phim giải quyết được vấn đề là làm thế nào để có thể mô tả được tổng thể của hang Sơn Đoòng nhờ có thiết bị scan 3D.

Hình ảnh trong một tác phẩm truyền hình là yếu tố rất quan trọng, chiếm vai trò chủ đạo. Đặc biệt, trong các bộ phim khoa học, hình ảnh lại càng trở nên cần thiết, giúp minh họa và mô tả chi tiết những nội dung khoa học, để người xem hiểu rõ hơn. Vì thế, các thiết bị công nghệ được ứng dụng vào xây dựng hình ảnh trong thể loại phim này càng giúp truyền tải nội dung hiệu quả hơn. Bên cạnh hình ảnh cố định, phim khoa học còn cần đến những hình ảnh động, nhờ công nghệ mới tạo nên được.

Như trong quá trình làm phim về hang Sơn Đoòng, chúng tôi sử dụng flycam để quay được xung quanh những trụ đá hay những cảnh bay từ dưới đáy của hang vượt qua ngoài cửa, lộ sáng ở độ cao gần 300m, có thể hình dung là cú bay này của chúng tôi bay ở độ cao hơn cả tòa nhà Keangnam. Còn công nghệ scan 3D giúp người xem hình dung bao quát được, theo dõi được từ đầu đến cuối lòng hang, xem được các điểm khuất như mong muốn. Phải mất hơn 6 tháng từ khi đi khảo sát thì chúng tôi cũng hoàn thành 2 tập phim khoa học “Vì sao Sơn Đoòng”, và thành quả đã được khán giả và Ban Giám khảo của Liên hoan phim Cánh diều vàng 2023 ghi nhận với cú đúp Cánh diều vàng.  

Không chỉ thành công với các mảng đề tài về hang động, đối với mảng đề tài về thiên nhiên, về đa dạng sinh học, tôi cũng luôn tìm kiếm và đưa ra những phương án sản xuất phù hợp cho từng đề tài khi mình quyết định sản xuất. Hiện tại, ở VTV có rất ít đạo diễn có thể vừa làm đạo diễn và có thể ghi hình dưới nước như tôi, bởi đây là một lĩnh vực khó, nguy hiểm, một mảnh đất tiềm năng chưa khai thác hết đối với những người làm phim như chúng tôi. Gần đây nhất là chuyến lặn biển tại Nha Trang với 4 tập phim về những rạn san hô chết dưới đáy đại dương được ghi hình ở Nha Trang, theo đúng kỹ thuật mỗi một ca lặn người thợ lặn phải nghỉ 6 tiếng mới có thể lặn tiếp ca thứ 2, nhưng có ngày tôi lặn đến 3 ca vì thế giới dưới nước luôn cuốn hút lôi kéo mình khám phá những thứ rất mới mà trên bờ mình chưa được khám phá. Chuyến ghi hình tại Nha Trang diễn ra hơn 10 ngày nhưng đến ngày thứ 3, bạn đồng nghiệp của tôi bị cảm và say nắng do lịch làm việc quá dày, buộc bạn phải ngồi trên thuyền và ghi hình bằng rô bốt ghi hình dưới nước. Nói về rô bốt ghi thì đây cũng là sản phẩm tôi mày mò ship từ bên nước ngoài về bằng tiền túi của mình bỏ ra để đầu tư cho phim của mình. Với mong muốn có nhiều hình ảnh hơn, nhiều chất liệu hơn phục vụ nội dung, hơn 10 ngày lặn liên tục khiến tôi không thể lên máy bay đúng lịch, phải ở lại Nha Trang chờ thêm 2 ngày để lượng Nitơ trong máu được đào thải ra vì theo quy định của các hãng bay là những người đi lặn biển liên tục nhiều tiếng, nhiều ngày không được phép bay khi lượng khí Nitơ trong máu còn cao. Đây cũng là một trong những chuyến làm phim đáng nhớ của tôi, và tôi luôn khát khao có được nhiều trang thiết bị và kinh phí để khai thác các mảng đề tài ẩn sâu dưới đáy đại dường như các nhà làm phim quốc tế họ đang làm, nhưng có vẻ xa vời vì hiện tại ở Việt Nam, các đơn vị chưa chú trọng đến mảng đề tài này bởi vì nó rất tốn kém tiền tài và trí lực.

Những cố gắng với sự đam mê luôn được đền đáp bằng các giải thưởng hàng năm nhưng đó chỉ là một chút động viên về tinh thần, cái quan trọng nhất là tôi được sống với những đam mê của chính mình.

Tâm An