Các sản phẩm này chủ yếu thuộc mã HS 7306.61 và 7306.30 được nhập khẩu từ Việt Nam. Nguyên đơn trong vụ việc này gồm các doanh nghiệp sản xuất ống thép lớn tại Mỹ (như Nucor Corporation, Bull Moose Tube, Maruichi Steel Corporation…).
Doanh nghiệp Mỹ cáo buộc Việt Nam nhập khẩu thép cán nóng (HRS), vốn là nguyên liệu chính để sản xuất ra ống thép từ Trung Quốc và Hàn Quốc, sau đó gia công, chế biến đơn giản thành ống thép và xuất sang Mỹ nhằm lẩn tránh thuế phòng vệ thương mại tương ứng mà Mỹ đang áp dụng với Trung Quốc và Hàn Quốc.
Theo đó, Mỹ đã áp thuế chống bán phá giá/chống trợ cấp sản phẩm ống thép dạng vuông/chữ nhật và ống thép carbon dạng tròn có đường hàn nhập khẩu từ Trung Quốc với mức thuế chống bán phá giá lần lượt là 69,20 - 85,55% và 249,12 - 264,64% và mức thuế chống trợ cấp khoảng 29,57 - 615,92% và 2,17% - 200,58% từ năm 2008.
Dữ liệu của Ủy ban Thương mại quốc tế Mỹ (ITC) cho thấy, năm 2021, tổng giá trị xuất khẩu các sản phẩm bị đề nghị điều tra của Việt Nam sang Mỹ khoảng 57,6 triệu USD.
Theo quy định của Mỹ, trong vòng 30 ngày kể từ khi nhận đơn, DOC sẽ ra quyết định khởi xướng vụ việc (có thể được gia hạn).
Do đó, Cục Phòng vệ Thương mại khuyến nghị các doanh nghiệp sản xuất/xuất khẩu liên quan rà soát các hoạt động xuất khẩu các sản phẩm ống thép bị điều tra sang Mỹ; Nghiên cứu thủ tục điều tra chống lẩn tránh thuế của Mỹ và phối hợp với Cục trong quá trình của vụ việc.
Cục sẽ phối hợp với Hiệp hội Thép Việt Nam rà soát, làm việc trực tiếp với các doanh nghiệp sản xuất, xuất khẩu liên quan để tìm hiểu về tình hình sản xuất và xuất khẩu sang Mỹ, ngăn chặn các dấu hiệu, hành vi lẩn tránh (nếu có).
Trang Nguyễn