Sáng 5/12, Quốc hội thảo luận tại hội trường về chủ trương đầu tư Chương trình Mục tiêu Quốc gia (CTMTQG) giai đoạn 2026-2035. Việc hợp nhất ba chương trình hiện hành thành một chương trình tổng thể được đánh giá là bước đột phá về thể chế, song cơ cấu vốn và khả năng huy động nguồn lực đang trở thành tâm điểm chú ý khi hàng loạt đại biểu bày tỏ lo ngại về gánh nặng đối ứng quá lớn lên các địa phương nghèo, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.

Cần điều chỉnh mạnh cơ cấu nguồn vốn
Theo Tờ trình của Chính phủ, tổng nhu cầu vốn CTMTQG giai đoạn 2026-2030 là khoảng 500 nghìn tỷ đồng. Tuy nhiên, ngân sách Trung ương chỉ dự kiến bố trí 100 nghìn tỷ đồng, tương đương 20%, trong khi ngân sách địa phương phải đối ứng tới 400 nghìn tỷ đồng. Đại biểu Hà Sỹ Huân (Thái Nguyên) cho rằng tỉ trọng này gây áp lực rất lớn cho các tỉnh nghèo, nơi tỉ lệ hộ nghèo cao, nguồn thu hạn hẹp và khó có khả năng cân đối vốn.
Đại biểu Mai Văn Hải (Thanh Hóa) dẫn chứng thêm sự chênh lệch giữa hai giai đoạn. Trong giai đoạn 2021-2025, tổng vốn ngân sách Trung ương dành cho ba chương trình là hơn 190 nghìn tỷ đồng. Sang giai đoạn mới, con số này giảm còn 100 nghìn tỷ đồng, trong khi yêu cầu đối ứng của địa phương tăng hơn gấp đôi. "Nhiều tỉnh miền núi thu không đủ chi, nguồn đầu tư chủ yếu dựa vào tiền sử dụng đất. Nhưng nay địa phương chỉ được hưởng 80% đến 85% nguồn này, khiến khả năng cân đối càng khó khăn", đại biểu phân tích.
Nhiều ý kiến bày tỏ lo ngại về tính khả thi khi cơ cấu vốn dồn gánh nặng lên địa phương. Đại biểu Hồ Thị Minh (Quảng Trị) nêu rõ: Với tổng nhu cầu vốn 1,23 triệu tỷ đồng cho giai đoạn 2026-2030, vốn Trung ương chỉ chiếm 8%, ngân sách địa phương 33% và huy động từ doanh nghiệp, người dân tới 28%. "Ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, việc yêu cầu đối ứng 33% gần như bất khả thi và tiềm ẩn nguy cơ nợ đọng xây dựng cơ bản", đại biểu cảnh báo, đồng thời đề nghị miễn đối ứng cho các xã nghèo, vùng thường xuyên chịu thiên tai ở miền Trung và Tây Nguyên.
Đại biểu Hà Sỹ Đồng (Quảng Trị) cũng phân tích rằng, nhu cầu vốn tối thiểu 240 nghìn tỷ đồng nhưng mới cân đối được khoảng 100 nghìn tỷ đồng, chỉ đạt 41,5%. Trong khi đó, yêu cầu huy động 33% vốn địa phương và 28% từ doanh nghiệp là rất khó thực hiện. Đại biểu Điểu Huỳnh Sang (Đồng Nai) nhấn mạnh tỉ lệ đối ứng gấp bốn lần vốn Trung ương là "không phù hợp", đề nghị ngân sách Trung ương phải đóng vai trò quyết định để đảm bảo đầu tư có trọng tâm, trọng điểm.
Từ thực tế đó, đa số đại biểu kiến nghị cần điều chỉnh mạnh cơ cấu nguồn vốn theo hướng tăng tỷ trọng ngân sách Trung ương, giảm gánh nặng đối ứng cho các địa phương khó khăn, đồng thời thiết kế cơ chế huy động vốn doanh nghiệp và cộng đồng nhưng phải phù hợp năng lực thực tế của từng vùng.
Tránh dàn trải, cào bằng
Cùng với vấn đề cơ cấu vốn, nguyên tắc phân bổ nguồn lực cũng được các đại biểu đặc biệt quan tâm. Đại biểu Hoàng Quốc Khánh (Lai Châu) cho rằng nguồn lực có hạn nên cần tập trung đúng vùng lõi nghèo, tránh dàn trải, cào bằng. Tuy nhiên, các nguyên tắc hiện hành vẫn còn khái quát, thiếu tiêu chí định lượng rõ ràng. Đại biểu Hà Sỹ Huân đề nghị lượng hóa tiêu chí phân bổ, khoanh rõ đối tượng thụ hưởng, dựa trên mức độ khó khăn, tỉ lệ hộ nghèo và số tiêu chí chưa đạt của chương trình.
Đại biểu Hà Sỹ Đồng kiến nghị ít nhất 70% vốn ngân sách Trung ương phải ưu tiên cho vùng dân tộc thiểu số và miền núi, trong đó tối thiểu 40% cho địa bàn đặc biệt khó khăn, để bảo đảm đầu tư đúng trọng tâm.
Nhiều ý kiến đề nghị tăng tính chủ động cho địa phương trong rà soát, xác định nhiệm vụ đầu tư, đồng thời rút kinh nghiệm từ giai đoạn trước để tránh phân mảnh, kéo dài, kém hiệu quả. Việc huy động 28% vốn từ doanh nghiệp và người dân, như đại biểu Hồ Thị Minh nhận định, là thách thức lớn tại các vùng lõi nghèo.
Bên cạnh cơ cấu vốn, các đại biểu cũng phân tích sâu các mục tiêu và nhiệm vụ của Chương trình. Đại biểu Hồ Thị Minh cho rằng một số chỉ tiêu quá cao và khó thực hiện khi nhiều nhiệm vụ ở giai đoạn trước vẫn chưa hoàn thành, nhất là các dự án về nước sạch, đất ở, đất sản xuất. Đại biểu đề nghị đầu tư mạnh mẽ, không nhỏ lẻ kiểu khoan giếng hay cấp bồn nước mà cần chiến lược dài hạn như đầu tư theo mô hình điện lưới quốc gia cho nước sạch.
Đại biểu Hoàng Quốc Khánh nhấn mạnh yêu cầu bố trí nguồn lực để giải quyết cấp bách tình trạng sạt lở, lũ quét ở các tỉnh miền núi. Đại biểu đề nghị quy định rõ chỉ tiêu về tỉ lệ thôn bản nguy cơ cao được sắp xếp, tái định cư an toàn để làm căn cứ pháp lý cho việc phân bổ vốn.
Đại biểu Mai Văn Hải (Thanh Hóa) đề nghị làm rõ căn cứ xây dựng các mục tiêu hộ nghèo đa chiều, nông thôn mới và nông thôn mới hiện đại. Khi bộ tiêu chí mới chưa hoàn thiện, việc xác định mục tiêu cần thận trọng, có cơ sở khoa học và thực tiễn, tránh đặt ra quá cao so với khả năng của địa phương.
Đại biểu Hà Sỹ Đồng cũng bày tỏ lo ngại về nguy cơ trùng lặp và bỏ sót trong phân loại địa bàn khi tiêu chí vùng dân tộc thiểu số mới ban hành nhưng chưa có kết quả phân định, còn tiêu chí nông thôn mới và giảm nghèo vẫn đang dự thảo. Đại biểu đề nghị hoàn thiện hệ thống tiêu chí đồng bộ làm căn cứ xuyên suốt trong tổ chức thực hiện.
Đề xuất phân quyền mạnh cho địa phương, đặc biệt là cấp xã
Nhiều đại biểu nhấn mạnh yêu cầu xây dựng bộ tiêu chí mới, chung và có phân lớp rõ ràng cho giai đoạn 2026-2035, từ mục tiêu đến nhiệm vụ, nhất là trong các nội dung liên quan đến giảm nghèo đa chiều, nông thôn mới hiện đại và mức thu nhập của người dân tộc thiểu số. Đại biểu Điểu Huỳnh Sang lưu ý rằng nhiều chỉ tiêu đề xuất còn thiếu cơ sở thực tiễn và cần được tính toán phù hợp nguồn lực tài chính.
Về mô hình tổ chức triển khai, các đại biểu đề nghị khắc phục triệt để các vướng mắc giai đoạn trước như thủ tục phức tạp, phân cấp chưa rõ, hướng dẫn chậm. Đại biểu Hà Sỹ Đồng đề xuất phân quyền mạnh cho địa phương, đặc biệt là cấp xã, trong quyết định danh mục dự án và tổ chức thực hiện, vì cấp xã nắm rõ tình hình thực tế, nhu cầu và đặc thù địa bàn. Đồng thời cần có cơ chế bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm để tránh tâm lý sợ sai, sợ trách nhiệm.
Đại biểu Hà Sỹ Huân đánh giá cao việc dự thảo đã phân cấp cho Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định phân bổ nguồn lực, song cho rằng thủ tục vẫn còn rườm rà và thiếu tính chủ động. Đại biểu đề nghị mạnh dạn giao quyền cho cấp xã để thực hiện phương châm "địa phương quyết, địa phương làm và địa phương chịu trách nhiệm", đồng thời cấp tỉnh giữ vai trò định hướng, giám sát, hỗ trợ kỹ thuật.
Nhiều ý kiến cũng yêu cầu bổ sung cơ chế đặc thù để ứng phó khẩn cấp với thiên tai, cho phép Chủ tịch UBND địa phương được quyết định triển khai các giải pháp tái định cư, sinh kế mà không phải chờ thủ tục của Luật Đầu tư công, nhằm bảo đảm tính kịp thời trong xử lý hậu quả.
Về cơ chế phối hợp, đại biểu Vũ Xuân Hùng (Thanh Hóa) đề nghị thiết lập quy chế phối hợp chặt chẽ giữa các bộ, ngành, nhất là với những dự án nằm trong khu vực nhạy cảm về quốc phòng, an ninh, tôn giáo.
Đại biểu cho rằng cần quy định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan trung ương và địa phương; thống nhất giao Bộ Nông nghiệp và Môi trường là cơ quan đầu mối, riêng hợp phần đặc thù vùng dân tộc thiểu số và miền núi giao cho Bộ Dân tộc và Tôn giáo chủ trì.
Đại biểu Điểu Huỳnh Sang cũng đề nghị quy định rõ trách nhiệm từng cơ quan, cơ chế giám sát để tránh dàn trải, bảo đảm 118 chính sách dân tộc đã tích hợp vào chương trình được thực thi hiệu quả.
Việc hợp nhất ba Chương trình Mục tiêu Quốc gia thành một chương trình tổng thể được các đại biểu thống nhất cao, coi đây là giải pháp quan trọng nhằm tập trung nguồn lực, giảm chồng chéo, phân tán và phù hợp mô hình chính quyền địa phương hai cấp. Với các tỉnh miền núi và vùng đồng bào dân tộc thiểu số, chương trình mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là nguồn lực dẫn dắt trong việc xây dựng hạ tầng thiết yếu, giảm nghèo bền vững, thu hẹp khoảng cách phát triển và giữ vững quốc phòng, an ninh.
Tuy nhiên, để chương trình giai đoạn 2026-2035 khả thi và đạt hiệu quả cao nhất, các đại biểu đều thống nhất rằng Chính phủ cần rà soát cơ cấu vốn theo hướng tăng vai trò chủ đạo của ngân sách Trung ương, điều chỉnh tiêu chí phân bổ theo hướng định lượng, tập trung, tránh dàn trải; hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu và cơ chế phân loại; đồng thời đẩy mạnh phân quyền, phân cấp gắn với trách nhiệm và cơ chế phối hợp rõ ràng. Chỉ khi đó, nguồn lực đầu tư mới thực sự đến được vùng lõi nghèo, mang lại những chuyển biến thực chất, bền vững và toàn diện cho khu vực đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Theo Chinhphu.vn























