Lượng tro, xỉ tồn đọng nhiều
Chính phủ đã có Quyết định 567 ngày 28/4/2010 phê duyệt Chương trình Phát triển Vật liệu xây không nung đến năm 2020. Theo đó, mục tiêu đặt ra là phát triển sản xuất và sử dụng vật liệu xây không nung thay thế gạch đất sét nung đạt tỷ lệ 20-25% vào năm 2015, 30-40% vào năm 2020. Đến nay, qua 8 năm thực hiện, mặc dù số doanh nghiệp đầu tư cho phát triển vật liệu không nung là không ít, song vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra.
Mới đây (20/6), tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị “Sản xuất vật liệu xây dựng từ tro xỉ”. Thông tin tại hội nghị, hiện nay, một số chủ đề về tro, xỉ NMNĐ được nghiên cứu tại Việt Nam là: Sử dụng tro, xỉ làm phụ gia khoáng cho sản xuất xi-măng, bê-tông các loại (đã được tiêu chuẩn hóa thành TCVN); làm cốt liệu cho bê-tông và vữa (đã được tiêu chuẩn hóa thành TCVN); thay thế đất sét trong sản xuất clanh-ke xi-măng, gạch đất sét nung; sản xuất gạch không nung: gạch bê-tông (xi-măng cốt liệu), gạch bê-tông khí chưng áp, bê-tông bọt; làm vật liệu san lấp (chuẩn bị ban hành TCVN); kết hợp chất kết dính làm lớp móng đường giao thông; sử dụng tro bay làm vật liệu gia cố nền đất yếu; làm cốt liệu nhẹ cho bê-tông.
Theo Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), có 12 NMNĐ than đang vận hành sử dụng tổng khối lượng than trung bình năm khoảng 34 triệu tấn. Tổng khối lượng tro, xỉ của các NMNĐ than của EVN phát sinh trung bình 8,1 triệu tấn/năm.
Hiện nay, khối lượng tro, xỉ được tiêu thụ vẫn chưa đáng kể
Đối với các NMNĐ sử dụng than nội địa, loại than chủ yếu là dải than cám 5a, 5b và 6a có độ tro trung bình từ 29% đến 37,5%, trong đó khối lượng tro bay chiếm từ 70 đến 80% và khối lượng xỉ đáy lò chiếm 20-30%. Đối với các NMNĐ sử dụng than nhập, loại than sử dụng là bituminos và sub-bituminous với độ tro trung bình là 6-7%, trong đó khối lượng tro bay chiếm từ 80 đến 85% và khối lượng xỉ đáy lò chiếm 15-20%.
Hiện nay, khối lượng tro, xỉ đang lưu giữ tại các NMNĐ than là gần 15 triệu tấn. Điển hình NMNĐ Quảng Ninh và Mông Dương 1 có khối lượng tro, xỉ chưa tiêu thụ nhiều. Đối với các nhà máy nhiệt điện than khu vực phía Nam tại Trung tâm Nhiệt điện Duyên Hải và Vĩnh Tân mới đưa vào vận hành cũng đã làm việc với các đơn vị có khả năng tiêu thụ tro xỉ, tạo điều kiện để các đơn vị này tiến hành lấy mẫu thí nghiệm để đưa ra phương án tiêu thụ. Tuy nhiên, cho đến nay, khối lượng tro, xỉ được tiêu thụ vẫn chưa đáng kể.
PGS, TS Trương Duy Nghĩa, Chủ tịch Hội Khoa học kỹ thuật Nhiệt Việt Nam cho biết: Tổng nhu cầu than cho sản xuất điện của cả nước đến năm 2020 sẽ là 63 triệu tấn, năm 2025 là 95,4 triệu tấn và năm 2030 là 128,4 triệu tấn, tương đương tổng lượng tro thải ra 15,09 triệu tấn (năm 2020), 17 triệu tấn (năm 2025) và 20,58 triệu tấn (năm 2030). Vì vậy, để bảo đảm các NMNĐ than hoạt động ổn định, cần khẩn trương tìm giải pháp để tiêu thụ lượng tro, xỉ đang tiếp tục phát sinh và còn tồn tại các bãi thải hiện nay.
Quyết liệt trong sử dụng
Để tháo gỡ các khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện trong lĩnh vực sản xuất VLXD từ tro xỉ, các công ty đưa ra một số kiến nghị về ban hành chính sách hỗ trợ cho các đơn vị đầu tư nhà máy tuyển: hỗ trợ về lãi xuất, thuế thu nhập, thuế VAT, đồng thời giúp các doanh nghiệp tiếp cận các nguồn vốn hỗ trợ. Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng đề xuất nên quy định các đơn vị xử lý tro thải của các nhà máy điện được hưởng một phần chi phí chôn lấp tro thay vì phải mua như hiện nay. Hơn nữa, tro, xỉ thải của các NMNĐ than cần phải được xử lý đảm bảo các yêu cầu theo TCVN ban hành để đảm bảo chất lượng VLXD và chất lượng công trình.
Theo PGS, TS Trương Duy Nghĩa, cần sự tham gia của tất cả các chủ thể như cơ quan quản lý nhà nước, chủ các NMNĐ, các đơn vị tiếp nhận, sử dụng tro, xỉp triển sản xuất VLXD từ tro, xỉ.
“Tro, xỉ là nguyên liệu quý để sản xuất VLXD như gạch không nung và công nghệ bê tông đầm lăn. Khối lượng tro, xỉ thải ra từ các NMNĐ than là ít so với nhu cầu làm VLXD nếu được khai thác triệt để cho các khả năng sử dụng này. Đối với gạch không nung, tôi đề nghị có lộ trình tiến tới cấm sản xuất gạch nung cho tất cả các loại lò, kể cả lò tuyển; có chính sách khuyến khích sản xuất và sử dụng gạch không nung từ tro bay của NMNĐ than. Đồng thời, chỉ đạo ngành xây dựng và ngành giao thông buộc phải sử dụng tro, xỉ và các sản phẩm VLXD từ tro xỉ, thạch cao trong xây dựng. Các bộ ngành cũng cần sớm xây dựng và ban hành đầy đủ hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia về tro, xỉ, các sản phẩm được sản xuất từ tro xỉ”, ông Nghĩa nhấn mạnh.
Phó Tổng Giám đốc EVN Nguyễn Tài Anh khẳng định, để đẩy mạnh việc tái sử dụng tro, xỉ, EVN sẵn sàng hợp tác với các đối tác để cùng nghiên cứu tìm giải pháp và xây dựng kế hoạch dài hạn. EVN cam kết tạo điều kiện thuận lợi cho các đơn vị có giải pháp tái sử dụng tro xỉ tiếp cận nguồn nguyên liệu tro xỉ tại các nhà máy nhiệt điện than của EVN. Đồng thời, sẵn sàng hỗ trợ đối tác trong việc tìm giải pháp đảm bảo chất lượng tro xỉ của các nhà máy nhiệt điện.
EVN ưu tiên hợp tác với các đối tác có mục tiêu đầu tư sử dụng tro, xỉ dài hạn với khối lượng lớn, thực hiện tiêu thụ tro, xỉ theo các hợp đồng dài hạn và lựa chọn các đối tác trên cơ sở cạnh tranh, công khai, minh bạch.
Để đạt được các mục tiêu về xử lý tro, xỉ của NMNĐ, EVN kiến nghị các cấp có thẩm quyền tăng cường công tác tuyên truyền, khuyến khích các cơ sở sản xuất VLXD sử dụng tro, xỉ, thạch cao làm nguyên liệu sản xuất. Đồng thời, kiến nghị các cơ quan quản lý Nhà nước nghiên cứu cơ chế hỗ trợ, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nghiên cứu ứng dụng, tham gia kinh doanh với các NMNĐ trong việc xử lý và tiêu thụ tro, xỉ, thạch cao…
Hoan Nguyễn