Xuất khẩu xi măng, clinker sang Trung Quốc tăng đột biến gấp 80 lần
Xi măng và clinker là nhóm hàng xuất khẩu có mức tăng trưởng rất mạnh so với cùng kỳ 2017, tăng 63,2% về lượng và tăng 73,4% về kim ngạch, đạt 17,65 triệu tấn (tương đương 656,3 triệu USD). Giá xi măng, clinker xuất khẩu tăng 6,3%, đạt trung bình 37,2 USD/tấn – theo số liệu của Tổng cục Hải quan.
Bangladesh là thị trường tiêu thụ nhiều nhất sản phẩm xi măng, clinker của Việt Nam, chiếm 26,9% trong tổng lượng và chiếm 23,3% trong tổng kim ngạch xuất khẩu xi măng của cả nước, với 4,75 triệu tấn (tương đương 152,8 triệu USD), tăng 4,9% về lượng và tăng 15,8% về kim ngạch so cùng kỳ năm ngoái. Giá xuất khẩu sang thị trường này cũng tăng 10,4%, đạt trung bình 32,2 USD/tấn.
Thị trường Trung Quốc nổi bật lên, với mức tăng đột biến gấp 80 lần về lượng và tăng gấp 90 lần về kim ngạch so cùng kỳ năm ngoái, đạt 4,52 triệu tấn (tương đương 158,35 triệu USD), chiếm 25,6% trong tổng lượng và chiếm 24,1% trong tổng kim ngạch – đứng thứ 2 về thị trường tiêu thụ xi măng, clinker của Việt Nam. Giá xuất khẩu sang Trung Quốc tăng 12,6%, đạt trung bình 35 USD/tấn.
Các thị trường chủ yếu tiêu thụ xi măng, clinker của Việt Nam 7 tháng đầu năm 2018
Tiếp sau đó là thị trường Philippines tăng 3,8% về giá, đạt trung bình 45,3 USD/tấn, tăng 23,5% về lượng, đạt 3,49 triệu tấn và tăng 28,1% về kim ngạch, đạt 159,73 triệu USD.
Xuất khẩu xi măng, clinker sang các nước Đông Nam Á nói chung chiếm 24,2% trong tổng lượng xi măng xuất khẩu của cả nước và chiếm 29,2% trong tổng kim ngạch, đạt 4,27 triệu tấn (tương đương 191,96 triệu USD), tăng 27,3% về lượng và tăng 29,7% về kim ngạch so cùng kỳ 2017.
Xét về mức tăng trưởng xuất khẩu xi măng, clinker trong 7 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm ngoái; ngoài thị trường Trung Quốc có mức tăng đột biến như trên, thì phần lớn các thị trường còn lại cũng đều có mức tăng cả về giá, lượng và kim ngạch.
Trong đó, các thị trường tăng trưởng mạnh như: Malaysia tăng 87,9% về lượng và tăng 102,2% về kim ngạch, đạt 0,52 triệu tấn (tương đương 17,85 triệu USD), giá xuất khẩu trung bình tăng 7,6%, đạt 34,2 USD/tấn. Thị trường Pê Ru tăng 74,7% về lượng và tăng 72% về kim ngạch, đạt 0,57 triệu tấn (tương đương 26,49 triệu USD), tuy nhiên, giá giảm nhẹ 1,5%, đạt 46,1 USD/tấn. Thị trường Đài Loan tăng 11,9% về giá, 66,7% về lượng và 86,5% về kim ngạch, đạt 0,97 triệu tấn (tương đương 31,88 triệu USD), giá trung bình 33 USD/tấn.
Giá xi măng, clinker xuất khẩu sang thị trường Australia được chú ý đặc biệt với mức tăng rất mạnh 96,2% so cùng kỳ năm ngoái, đạt mức cao nhất thị trường 66,7 USD/tấn. Tuy nhiên, lượng xuất khẩu lại sụt giảm mạnh 90,2% và kim ngạch giảm 80,8%, chỉ đạt 23.504 tấn (tương đương 1,57 triệu USD).
Bên cạnh đó, xuất khẩu sang Sri Lanka cũng giảm mạnh 68,3% về lượng và giảm 64,3% về kim ngạch, đạt 128.059 tấn (tương đương 4,23 triệu USD). Xuất khẩu sang Mozambic giảm 47,9% về lượng và giảm 40,8% về kim ngạch, đạt 156.120 tấn (tương đương 5,14 triệu USD).
Tiêu thụ xi măng nội địa ổn định, xuất khẩu bứt phá.
Hằng Vương (T/h)