THCL XK trong thời gian qua đã và đang là lối thoát cho các DN sản xuất xi măng trong nước, giảm áp lực tồn đọng sản phẩm do cung vượt cầu. Xung quanh vấn đề này, phóng viên đã có cuộc phỏng vấn Thứ trưởng Bộ Công thương Trần Tuấn Anh.
Ông đánh giá ra sao về năng lực XK của ngành sản xuất xi măng trong thời gian qua?
Trước hết, chúng ta cần đánh giá một cách toàn diện về hiệu quả của ngành xi măng đóng góp vào sự phát triển kinh tế quốc gia, cũng như nhu cầu XK những năm qua.
Chúng tôi nhận định, đánh giá hoạt động XK của xi măng và clinkler của Việt Nam, cần phải nghiên cứu một cách cẩn trọng gắn với điều kiện thực tiễn. Khoảng 4 - 5 năm trở lại đây, công suất thực tế của sản xuất xi măng Việt Nam đã vượt xa so với nhu cầu nội địa. Và rõ ràng đối với hệ thống ngành xi măng đã có như hiện nay thì một giải pháp đặt ra hàng năm cho công tác tiêu thụ là phải XK để bảo đảm hiệu quả chung trong sản xuất.
Có thể nói, XK xi măng đạt giá trị như hiện nay là điều đáng mừng. XK xi măng và clinker đã có dấu hiệu tăng trưởng trong thời gian vừa qua có gắn với giá thành tương đối ổn định. Hiện sản phẩm xi măng chưa phải là mặt hàng trọng điểm trong XK của Việt Nam, tuy nhiên, nó cũng đã có vị thế nhất định và quan trọng hơn cả đó là đã góp phần đưa ra giải pháp tiêu thụ cho ngành xi măng Việt Nam.
Theo Thứ trưởng, chúng ta có nên tiếp tục đẩy mạnh XK xi măng hay không?
Như tôi đã nói ở phần trên, giải pháp thị trường cho ngành sản xuất xi măng Việt Nam XK là yêu cầu cần thiết. Thực tế công suất hiện nay là khoảng 70 - 80 triệu tấn sản phẩm/năm, trong khi tiêu thụ nội địa chỉ hơn 50 triệu tấn. Như vậy, lượng xi măng dư thừa là trên dưới 20 triệu tấn, chắc chắn sẽ tiếp tục tăng trong thời gian tới. Vì vậy, trước mắt do chưa có các đánh giá đầy đủ, cũng như khảo sát thiết kế về hiệu quả trong sản xuất gắn với tiêu thụ xi măng thì chúng ta vẫn phải tính đến các giải pháp tình thế như XK để tạo điều kiện cho các nhà máy xi măng tiêu thụ sản phẩm.
Vậy Bộ Công thương có những giải pháp gì giúp DN đẩy mạnh XK?
Theo đánh giá của Bộ xây dựng thì trữ lượng đá vôi của Việt Nam, nguyên liệu chính sản xuất xi măng là rất lớn, tuy nhiên không phải vì như vậy mà chúng ta phung phí nguồn tài nguyên. Phải khẳng định, trữ lượng đá vôi có điều kiện phục vụ ngành xi măng, phục vụ nhu cầu về xây dựng trong khoảng thời gian dài.
Bên cạnh đó, hệ thống nhà máy đã được đầu tư xây dựng thời gian qua - đã đưa công suất sản xuất xi măng lên mức cao, buộc chúng ta phải tính đến bài toán tiêu thụ sản phẩm ở thị trường bên ngoài.
Liên quan tới hiệu quả XK xi măng, có rất nhiều yếu tố cần phải đánh giá kỹ hơn. Ví dụ, chi phí đầu vào xi măng với giá XK xi măng đã phản ánh đầy đủ chưa, tất cả các thiệt hại giá trị chúng ta bỏ ra, kể cả tài nguyên lẫn chi phí về thuế bảo vệ môi trường…? Cần có sự đánh giá kỹ hơn nữa giữa các bộ, ngành quản lý để điều chỉnh trong các văn bản pháp quy, cũng như định hướng lớn của ngành xi măng theo Quy hoạch 108 mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt.
Mặt khác, hiệu quả của XK xi măng, phải được tính toán, đánh giá trên một số hiệu quả có tính lan tỏa tới một số ngành, lĩnh vực khác như thuế, môi trường, logictic, tạo việc làm...
Thứ nữa, hiệu quả của XK xi măng, trong thời gian tới cũng phải tính trên nguyên tắc của kinh tế thị trường, cũng như đầu vào trong tất cả các nguồn nguyên - nhiên liệu phục vụ ngành công nghiệp đó, chứ không thể tiếp tục có những trợ giá dù là bất kỳ hình thức nào.
Trong khi giá điện, xăng đã bắt đầu điều hành theo nguyên tắc của kinh tế thị trường, DN phải tính đúng, tính đủ để từ đó có hướng tổ chức sản xuất, kinh doanh phù hợp, trong đó có XK nhằm bảo đảm nâng cao hiệu quả. Tuy nhiên, để trả lời cho hàng loạt câu hỏi “XK xi măng có phải là một giải pháp lâu dài?”, “xi măng có thể hướng tới xây dựng thành ngành XK trọng điểm của nền kinh tế hay không?”… thì các bộ, ngành còn rất nhiều việc để làm.
Trân trọng cảm ơn Thứ trưởng!
Kiều Tuyết (Thực hiện)