Giải phóng đảo Sơn Ca
Quân ủy Trung ương kiến nghị với Bộ Chính trị vừa chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, vừa tiến hành giải phóng các đảo và quần đảo chính quyền Sài Gòn đang chiếm giữ. Kiến nghị ngay lập tức được ghi vào Nghị quyết Bộ Chính trị ngày 25/3/1975.

Về thời cơ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp dặn dò: “Nếu đối phương đã rút toàn bộ hoặc rút đại bộ phận thì đánh chiếm ngay, nếu nước ngoài đánh chiếm trước thì đánh chiếm lại. Trên mặt trận biển Đông, hành động của Hải quân cũng phải thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”.
Nhiệm vụ được giao cho Đoàn 126, Quân chủng Hải quân. Đoàn đặc công nổi danh với hàng trăm trận đánh chìm tàu chiến của Mỹ ở Đông Hà - Cửa Việt làm lực lượng chủ công, phối hợp với đội đặc công nước của Tiểu đoàn 471 và Tiểu đoàn 4 của Trung đoàn 28, Sư đoàn 2 (Quân khu 5). Tàu vận tải quân sự của Trung đoàn 125 được giao nhiệm vụ chở quân. Thượng tá Mai Năng, Trưởng đoàn 126 là chỉ huy trận này.
Một ngày sau, các tàu vận tải 673, 674, 675 của Quân chủng Hải quân cải trang thành tàu đánh cá nước ngoài, chở theo các chiến sĩ đặc công rời quân cảng Đà Nẵng tiến về Trường Sa. Sau 3 ngày lênh đênh, đoàn tàu đến nơi, cách Song Tử Tây vài km vờ đánh cá để trinh sát tình hình.
Trong các đảo ở Trường Sa mà quân đội Việt Nam Cộng hòa chiếm giữ, Nam Yết là mạnh nhất, có sở chỉ huy chung và khoảng 60 binh sĩ; Song Tử Tây có khoảng 40 và mỗi đảo còn lại khoảng 20 người, được trang bị vũ khí bộ binh, cối... Quân chủng Hải quân chọn đánh Song Tử Tây trước vì đây là chỗ yếu nhất và để thăm dò phản ứng của đối phương, làm bàn đạp tấn công các đảo còn lại.
4h30 sáng 14/4, các tàu vận tải bí mật áp sát Song Tử Tây, 3 mũi đặc công cùng đổ bộ. Bị đánh bất ngờ, lính trên đảo chống trả yếu ớt. Sau 30 phút giao tranh, đặc công hải quân làm chủ Song Tử Tây.
Thực hiện chiến thuật vừa đánh vừa rút kinh nghiệm, ngày 25/4, bộ đội hải quân chiếm Sơn Ca; ngày 27/4 làm chủ Nam Yết và Sinh Tồn; ngày 28/4 chiếm Trường Sa Lớn và An Bang.

Các Quân đoàn giải phóng tiến vào các điểm tập kết bao vây Sài Gòn
Thiếu tướng Nguyễn Hòa, Tư lệnh Quân đoàn ra chỉ thị hiệp đồng trên sa bàn cho chỉ huy các đơn vị bộ binh và quân chủng. Bắt đầu từ ngày 25/4, Tiểu đoàn 5, Trung đoàn 27, Sư đoàn 320 bắt đầu cơ động lực lượng về Lái Thiêu.
Ngày 25/4, trên hướng hoạt động của Quân đoàn 3, phát hiện thấy Sư đoàn 25 ngụy có dấu hiệu rút về Ðồng Dù, Hóc Môn, Bộ Tư lệnh Quân đoàn ra lệnh cho Sư đoàn 316 đưa toàn bộ lực lượng ra ngăn chặn giam chân địch. Trung đoàn 149 cắt đứt đường số 1 ở đông Trảng Bàng, vây chặt và sẵn sàng tiến công địch ở căn cứ này. Trung đoàn 174 cắt đường số 1 ở khu vực Phước Mỹ sẵn sàng đánh chiếm căn cứ Phước Mỹ. Cũng từ ngày 25 (cho đến 27/4), pháo binh Quân đoàn 3 đã bắn phá mạnh vào các trận địa pháo địch ở Ðồng Dù, Phước Mỹ, Ðồng Chùa, Trảng Bàng, Gò Dầu Hạ, Bến Kho, Khiêm Hạnh.
Chuẩn bị cho trận quyết chiến chiến lược cuối cùng, các cơ quan phân xưởng của Quân giới B2 đã dồn hết khả năng nhân lực và trang thiết bị tập trung sản xuất hai loại vũ khí có nhu cầu lớn cho tác chiến lúc này là MÐH và bộc phá phá rào. Thực hiện mệnh lệnh của Bộ chỉ huy Miền, phòng quân giới Miền đã chỉ đạo các xưởng trực thuộc tổ chức một đợt sản xuất cao điểm 20 ngày từ ngày 5 đến 25-4 sản xuất được 6.809 quả bộc phá phá rào và 3.621 quả MÐH10.
Từ ngày 25/4/1975 Sài Gòn đã nằm trong vòng vây thép của đại quân giải phóng với sức mạnh áp đảo toàn bộ hệ thống phòng thủ của quân Sài Gòn.

Hướng tây bắc: Quân đoàn 3 (Tư lệnh: Thiếu tướng Vũ Lăng; Chính ủy: Đại tá Đặng Vũ Hiệp) và các Trung đoàn Gia Định 1, 2.
Hướng bắc và đông bắc: Quân đoàn 1 (Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Hòa; Chính ủy: Thiếu tướng Đặng Minh Thi).
Hướng đông và đông nam: Quân đoàn 2 (Tư lệnh: Thiếu tướng Nguyễn Hữu An; Chính ủy: Thiếu tướng Lê Minh Chính), (được tăng cường Sư đoàn 3/Quân khu 5), Quân đoàn 4 (Tư lệnh: Thiếu tướng Hoàng cầm; Chính ủy: Thiếu tướng Hoàng Thế Thiện), gồm các Sư đoàn 7, 6, 341.
Hướng tây và tây nam: Binh đoàn 232 (Tư lệnh: Trung tướng Lê Đức Anh; Chính ủy: Thiếu tướng Lê Văn Tưởng), gồm các Sư đoàn 3, 5, 9, 16; các Trung đoàn 88, 24; các Tiểu đoàn 1, 2 Long An.
Tại tỉnh Thủ Dầu Một, đến ngày 25/4/1975 chấp hành sự phân công của Ban Chỉ huy Tỉnh đội, cán bộ Tỉnh đội xuống các đơn vị tập trung của tỉnh, các huyện giao nhiệm vụ chiến dịch, đồng thời phối hợp các ngành kiểm tra công tác chuẩn bị của các cơ quan đơn vị, địa phương, nhằm bảo đảm thực hiện nhiệm vụ chiến dịch đề ra. Cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang tỉnh trong những ngày cuối tháng 4/1975 sục sôi khí thế cách mạng tiến công. Mọi công tác chuẩn bị về lực lượng, mục tiêu, vận chuyển khí tài, đạn dược, lương thực, thực phẩm, thuốc men, đã được tập kết tại các địa bàn đúng thời gian quy định.
Tại thị xã, thị trấn, trong các ấp chiến lược, hàng trăm đảng viên mật, hàng ngàn du kích mật, cơ sở mật, vượt qua hiểm nguy bám địa bàn vận động quần chúng, bí mật chuẩn bị mọi mặt, đẩy mạnh công tác binh vận, sẵn sàng nổi dậy.
Đến trước giờ Chiến dịch Hồ Chí Minh bắt đầu, các lực lượng vũ trang của tỉnh cùng 2 sư đoàn chủ lực của Quân đoàn 1, Đoàn 113 đặc công của quân khu, vượt qua bom đạn kẻ thù đã sẵn sàng ở vị trí xuất phát tấn công vào các mục tiêu địch theo kế hoạch.
Trong 11 ngày chuẩn bị nước rút cho Chiến dịch Hồ Chí Minh, hậu cần chiến lược Ðường 559 đã khai thác, vận chuyển được 24.000 tấn vũ khí, 25.000 tấn lương thực, thực phẩm, 1.000 tấn thuốc, 1.000 tấn xăng dầu; tổ chức 5 trạm trùng tu, 10 trạm sửa chữa pháo và xe tăng phục vụ cơ động cho chiến dịch. Ðặc biệt, trong những ngày chuẩn bị sát nút chiến dịch, hậu cần Miền đã đưa 10.000 người từ tuyến sau lên tổ chức thành 8 tiểu đoàn cơ động và huy động gần 4.000 xe vận tải các loại, 656 thuyền máy, ca-nô, 1.736 xe đạp thồ, 63.342 dân công hỏa tuyến, thành lập 15 bệnh viện dã chiến, 17 đội điều trị, với hơn 10.000 giường để phục vụ bộ đội.
Theo nhandan.vn/baobinhduong.vn























