Quốc hội tiến hành phiên chất vấn và trả lời chất vấn tại Kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa XIV. (Ảnh: VGP)
Tại phiên chất vấn và trả lời chất vấn ngày 6/11, Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cùng các Bộ trưởng nhận được nhiều câu hỏi về các vấn đề nóng đang được cử tri quan tâm.
Đại biểu Lê Thanh Vân (tỉnh Cà Mau) đề nghị Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng cho biết thực chất nguyên nhân gây ra đượt lũ lụt lịch sử tại miền Trung. Chúng ta cần có những giải pháp nào để bảo đảm an toàn cho người dân?.
Đại biểu Dương Tấn Quân (tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) đặt câu hỏi với Phó Thủ tướng Trịnh Đình Dũng về giải pháp khắc phục khó khăn, nâng cao năng lực tìm kiếm, cứu hộ, cứu nạn
Cuối phiên làm việc buổi chiều 6/11, Phó Thủ tướng Chính phủ Trịnh Đình Dũng trả lời, làm rõ thêm về nguyên nhân, giải pháp ứng phó thiên tai.
Theo Phó Thủ tướng, hiện nay tác động của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, thiên tai dị thường, đặc biệt là bão lũ và sạt lở đất đang là thách thức lớn với hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó châu Á là nơi chịu thiệt hại nặng nề nhất. Nhật Bản, một đất nước phát triển nhưng số vụ mưa lũ, gây sạt lở đất hàng năm trong giai đoạn vừa qua là khoảng 150 nghìn lượt/năm, tăng 1,5 lần so với giai đoạn trước (giai đoạn 2001-2010).
Mưa lũ, sạt lở đất, đá đã gây thiệt hại rất nặng nề về người, tài sản ở nhiều quốc gia như Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Hàn Quốc, Indonesia, Philippines,... Ở nước ta, mưa lũ, sạt lở đất ở nhiều nơi.
Tập trung những nguyên nhân chủ quan của sạt lở đất, Phó Thủ tướng phân tích trong những năm vừa qua, thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước để phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, phát triển kinh tế rừng thì rừng Việt Nam đã để phục hồi nhanh chóng. Năm 1945, rừng Việt Nam chiếm khoảng 43% thì đến năm 1995 chỉ còn 28%, đến nay độ che phủ rừng của Việt Nam đã đạt trên 41% và đứng thứ 50/193 quốc gia và vùng lãnh thổ; cao hơn, độ che phủ rừng của một số nước trong khu vực (Trung Quốc 28%, Thái Lan 21%,...) và cao hơn nhiều mức bình quân che phủ rừng của thế giới xấp xỉ 3%.
Tuy nhiên, chất lượng rừng của nước ta còn thấp, do thời gian dài rừng tự nhiên bị phá để phát triển kinh tế. Rừng mới, chất lượng không cao. Tình trạng phá rừng để làm nương rẫy, trồng cây công nghiệp, phát triển kinh tế vẫn chưa được ngăn chặn triệt để và có hiệu quả, đặc biệt là tình trạng phá rừng, lấy gỗ, xây nhà,... Việc trồng rừng thay thế chưa được kiểm soát chặt chẽ.Từ đó đã ảnh hưởng đến bảo vệ môi trường, giữ nước ngọt và cũng là một nhân tố gây sạt lở đất khi có mưa lũ.
Các hoạt động đầu tư xây dựng công trình hạ tầng, kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế xã hội tại các khu vực miền núi như các công trình giao thông, đường dây tải điện, hệ thống đường ống,... đã làm thay đổi địa hình, tác động tới ổn định kết cấu địa chất và dễ gây sạt lở, cản trở thoát lũ làm cho lũ dâng cao.
Việc xây dựng các công trình nhà ở, các công trình bệnh viện, trường học, công sở, các điểm dân cư tự phát… tại khu vực miền núi thiếu nghiên cứu yếu tố địa chất cũng là nhân tố tác động làm sạt lở đất đá trong mùa mưa lũ.
Việc xây dựng các công trình hồ, đập thủy lợi, thủy điện… nếu không được kiểm soát chặt chẽ từ khâu quy hoạch, lập dự án, đánh giá tác động môi trường, cho đến khâu đầu tư xây dựng và quản lý vận hành sẽ tác động rất lớn đến mưa lũ, sạt lở đất và đe dọa đến an toàn vùng hạ du.
Phó Thủ tướng cho biết hiện cả nước có trên 7.500 hồ thủy lợi, thủy điện đã đưa vào vận hành khai thác với dung tích khoảng 70 tỷ mét khối nước, trong đó có 437 hồ thủy điện - thủy lợi.
Nguồn thủy điện là nguồn năng lượng sạch, giá rẻ, vận hành thuận lợi và là nguồn nội lực tài nguyên của đất nước. Khác với các nguồn điện than, khí hóa lỏng, ta phải phụ thuộc vào nguồn năng lượng sơ cấp nước ngoài. Do đó các công trình thủy lợi, thủy điện có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là phát triển nông nghiệp, nông thôn, xây dựng nông thôn mới, xóa đói giảm nghèo, thực hiện tiến bộ xã hội, đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh nguồn nước.
Tuy nhiên, để xây dựng công trình hồ, đập thủy lợi, thuỷ điện cũng có tác động tiêu cực đến môi trường, vì các công trình hồ thủy lợi, thủy điện đa số đều xây dựng ở khu vực trung du, miền núi nên sẽ ảnh hưởng đến diện tích rừng. Đồng thời việc xây dựng các công trình còn tác động đến sự ổn định của kết cấu đất đá nên cũng có thể tác động đến sạt lở đất.
Lực lượng tìm kiếm cứu nạn tuy huy động được các lực lượng Trung ương, địa phương, quân đội, công an với phương châm “4 tại chỗ” nhưng chưa có lực lượng ứng phó thiên tai, tìm kiếm nạn chuyên nghiệp. Nhất là ở cơ sở, lực lượng chủ yếu là kiêm nhiệm, thiếu các phương tiện chuyên dùng, do đó rất khó, chậm tiếp cận đến điểm xảy ra sạt lở, thiên tai. Từ đó cũng ảnh hưởng đến hiệu quả của công tác tìm kiếm cứu nạn.
Phó Thủ tướng đã nêu lên 9 nhiệm vụ, giải pháp lớn trong thời gian tới.
Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế liên quan đến phòng, chống thiên tai; đặc biệt tập trung xây dựng các nghị định hướng dẫn Luật Phòng, chống thiên tai. Rà soát lại các kịch bản biến đổi khí hậu để từ đó làm cơ sở xây dựng các phương án ứng phó.
Thứ hai, tập trung xây dựng chiến lược phòng, chống thiên tai giai đoạn 2021 – 2030; xây dựng các quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch ngành, lĩnh vực, quy hoạch đô thị, quy hoạch tỉnh gắn với ứng phó biến đổi khí hậu và chống phòng, chống thiên tai. Trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch thực hiện quy hoạch, lựa chọn các dự án ưu tiên để đầu tư trong giai đoạn đảm bảo mục tiêu đa mục tiêu, gắn phòng, chống thiên tai.
Thứ ba, xây dựng các bản đồ cảnh báo khu vực có nguy cơ lũ ống, lũ quét, sạt lở đất nguy hiểm với tỷ lệ thích hợp. Vấn đề này đã được chỉ đạo, được triển khai, nhưng mới chỉ xây dựng được bản đồ với tỷ lệ lớn, chưa xác định chính xác các điểm nguy hiểm để sơ tán dân.
Trên cơ sở bản đồ, sẽ quy hoạch, phân bổ lại, bố trí lại dân cư và có những chủ trương đầu tư để đảm bảo an toàn cho người dân. Đồng thời xây dựng hệ thống cảnh báo sớm để kịp thời sơ tán khẩn cấp trước khi có sạt lở đất, lũ quét. Đây là kinh nghiệm của các nước như Nhật Bản, Hoa Kỳ….
Thứ tư, kiểm soát chặt chẽ việc đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng kinh tế xã hội gắn với ứng phó biến đổi khí hậu và chống thiên tai như các công trình giao thông miền núi, các công trình hồ, đập thủy lợi, thủy điện, đặc biệt là công trình thủy điện nhỏ. Yêu cầu phải đảm bảo đa mục tiêu, hạn chế tối đa việc sử dụng đất rừng tự nhiên, rừng phòng hộ, thực hiện nghiêm việc trồng rừng thay thế.
Thứ năm, sửa chữa, nâng cấp đảm bảo an toàn các công trình hồ, đập đê điều, đầu tư chống sạt lở bờ sông, bờ biển. Rà soát, sửa chữa, cải tạo công trình giao thông gây cản trở thoát lũ, đầu tư nâng cấp các khu neo đậu tàu thuyền đảm bảo tránh lũ an toàn.
Thứ sáu, tiếp tục đầu tư chương trình nhà vượt lũ của các tỉnh duyên hải miền Trung từ Thanh Hóa đến Bình Thuận. Trong thời gian tới, Quốc hội cần bố trí cụ thể nguồn lực trong trung hạn 2021 – 2025 để triển khai thực hiện.
Thứ bảy, nâng cao năng lực của các lực lượng tham gia phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, trong đó tăng cường tính chuyên nghiệp Trung ương đến cơ sở. Kinh nghiệm tại Trà Leng là lựu lượng tại chỗ đóng vai trò rất quan trọng.
Đầu tư các phương tiện, thiết bị chuyên dùng phục vụ phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn.
Thường xuyên tổ chức diễn tập phòng, chống thiên tai, tìm kiếm cứu nạn, quán triệt nghiêm túc phương châm “4 tại chỗ”.
Thứ tám, cần lồng ghép đầu tư công tác phòng, chống thiên tai trong các chương trình, dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội của từng ngành, từng địa phương.
Thứ chín, Chính phủ sẽ báo cáo Quốc hội về nhu cầu chi ngân sách cho công tác phòng chống thiên tai. Yêu cầu kinh phí là rất lớn.
Trần Nguyên (ghi)