Để triển khai chiến dịch đạt mục tiêu đề ra, công tác tuyên truyền được các địa phương, đơn vị thực hiện bài bản và rộng khắp, với hơn 9.500 lượt truyền thông, tiếp cận 2,74 triệu lượt người dân, giúp lan tỏa thông điệp về trách nhiệm của mỗi công dân trong quá trình số hóa quản lý đất đai. Nhiều người dân, doanh nghiệp đã chủ động phối hợp với chính quyền địa phương cung cấp hồ sơ, thông tin, tạo thuận lợi lớn cho công tác thu thập, đối soát dữ liệu.
Sở NN&MT đã tiến hành rà soát, phân loại hơn 33.000 thửa đất được xây dựng dữ liệu từ trước tại các địa phương, đồng thời số hóa hơn 251.000 hồ sơ đã được cấp GCNQSDĐ (đạt trên 61% kế hoạch).

Trong bảng kết quả thực hiện chiến dịch do Tổ công tác của tỉnh thống kê, đến cuối tháng 10/2025, nhiều địa phương có sự bứt phá với tỷ lệ thu thập và số hóa gần như tuyệt đối. Nổi bật như: Phường Hà An đạt 100% thu thập hồ sơ và 90,6% số hóa; phường Việt Hưng thu thập hồ sơ đạt 99,45% và 91,13% số hóa; phường Cao Xanh đạt 99,14% thu thập, 90,29% số hóa; phường Quang Hanh hoàn thành 100% thu thập, 83,9% số hóa. Nhiều xã vùng cao của tỉnh cũng có kết quả tích cực như: Điền Xá, Cái Chiên, Lục Hồn, Đông Ngũ, Quảng Đức, Hoành Mô đều đạt từ 90-100% hồ sơ cần thu thập và số hóa.
Đặc biệt, đặc khu Vân Đồn, một trong những địa bàn có khối lượng dữ liệu phức tạp và lớn nhất tỉnh hiện đã thu thập và số hóa gần như toàn bộ 29.000 hồ sơ, đạt 99,97%, khẳng định năng lực tổ chức và sự vào cuộc quyết liệt của chính quyền địa phương.
Để có được kết quả đó, các địa phương chủ động phối hợp giữa chính quyền, công an, văn phòng đăng ký đất đai và tổ công tác cơ sở, bảo đảm quy trình khép kín từ thu thập đến làm sạch dữ liệu. Nhiều xã, phường đã kịp thời đề xuất phương án khắc phục, bổ sung nhân lực, tranh thủ hỗ trợ kỹ thuật từ VNPT, FPT và Sở NN&MT để “gỡ nút thắt” trong giai đoạn nước rút.
Bên cạnh kết quả tích cực, vẫn còn một số địa phương đạt tỷ lệ thấp, cần nỗ lực hơn trong giai đoạn “nước rút”. Phường Hà Tu mới đạt 89,35% thu thập và chỉ 6,38% số hóa (mức thấp nhất toàn tỉnh); phường Cửa Ông và phường Cẩm Phả cũng có tỷ lệ số hóa dưới 30%. Ở khu vực biên giới, xã Hải Sơn mới hoàn thành 59,49% thu thập và số hóa; phường Móng Cái 2 chỉ đạt 62,2%.
Theo Tổ công tác cấp tỉnh, nguyên nhân chủ yếu đến từ thiếu trang thiết bị quét, số hóa, chất lượng file không đồng đều, thiếu nhân lực kỹ thuật tại cấp xã, và sự phối hợp chưa chặt chẽ giữa các đơn vị. Một số địa phương nhập dữ liệu sai định dạng, phải chỉnh sửa, làm chậm tiến độ bàn giao. Nhiều hồ sơ đất đai đang thế chấp tại ngân hàng hoặc chủ sử dụng vắng mặt cũng khiến công tác thu thập gặp khó khăn. Ngoài ra, việc triển khai cụ thể ở một số xã, phường chưa khoa học khiến một số ít người dân phản ứng. Nhiều khu phố cho rằng, các tổ công tác nên phổ biến cho người dân để họ kiểm tra lại GCNQSDĐ của mình, xem đã cập nhật căn cước mới nhất chưa, nếu chưa thì mới nộp bản sao giấy chứng nhận cùng căn cước để cơ quan quản lý đối soát với dữ liệu có sẵn rồi làm mới, cập nhật dữ liệu.

Theo kế hoạch, trong tháng 11, các địa phương có tỷ lệ thu thập và số hóa thấp cần phải tăng tốc để hoàn thành toàn bộ chiến dịch. Nhiệm vụ cụ thể như sau: Sở NN&MT chịu trách nhiệm chung, tăng tốc chuẩn hóa dữ liệu, hoàn thành nhập biểu trước 15/11; Công an tỉnh phối hợp đối soát thông tin người sử dụng đất với CSDL dân cư trước ngày 20/11, bảo đảm tính chính xác và bảo mật; VNPT, FPT và Trung tâm Phục vụ hành chính công tỉnh khẩn trương hoàn thiện kết nối liên thông giữa các hệ thống dữ liệu đất đai, thuế và thủ tục hành chính; UBND các xã, phường, đặc khu tiếp tục thu thập, quét và nhập dữ liệu, đảm bảo đạt 100% trước ngày 10/11.
Việc làm sạch dữ liệu đất đai đang triển khai sẽ khắc phục tình trạng dữ liệu rời rạc, thiếu đồng bộ nhiều năm qua. Từ đó tiến tới chuẩn hóa, đồng bộ và kết nối thông tin đất đai với dữ liệu dân cư, tạo nền tảng cho quản trị đô thị hiện đại, minh bạch và nâng cao chất lượng phục vụ người dân, giảm tối đa các tranh chấp phát sinh. Triển khai chiến dịch hiện không chỉ là nhiệm vụ kỹ thuật, mà còn là phép thử về năng lực tổ chức, tinh thần trách nhiệm và khả năng phối hợp của các cấp chính quyền sau khi thực hiện mô hình địa phương 2 cấp.
Trần Trang (t/h)























