Đó là một trong những nhận định được nêu ra tại tọa đàm “Nâng cao hiệu quả trong đấu tranh chống hàng giả, hàng nhái và bảo vệ thương hiệu DN” diễn ra ngày 10/11/2017.

Hàng giả, hàng nhái: Trở thành “ngành công nghiệp” đen tối - Hình 1

Hàng giả, hàng nhái đã rở thành “ngành công nghiệp” đen tối

Xử lý hơn 44.000 vụ vi phạm

Nền kinh tế ngày càng phát triển, hàng hóa ngày càng phong phú dồi dào, sản xuất, lưu thông hàng hóa mạnh mẽ. Nhưng, cũng chính từ đó, vấn nạn hàng giả, hàng nhái, đã trở thành một thực trạng nhức nhối, lây lan nhanh, ngày càng tinh vi, tàn phá kinh tế xã hội, phá hoại cạnh tranh công bằng và gây ảnh hưởng xấu đến quyền lợi của các nhà sản xuất, kinh doanh chân chính, cũng như đời sống xã hội, quyền lợi của NTD.

Theo đại diện BCĐ 389/QG, từ năm 2014 - 10/2017, cả nước đã xử lý hơn 44,5 nghìn vụ việc liên quan đến sản xuất, buôn bán hàng nhái, hàng giả. Trong đó, có thể kể đến những vụ việc lớn đã bị phát hiện như vụ sản xuất phân bón giả của Công ty Thuận Phong được phát hiện năm 2015; vụ án sản xuất, kinh doanh thuốc trị ung thư giả của Công ty dược VN Pharma vừa bị đưa ra xét xử; vụ đánh tráo mác nhà sản xuất, lợi dụng thương hiệu nhằm nâng giá lên hàng chục lần của thương hiệu Khải Silk... Mới đây nhất, lô hàng 11 tỷ đồng mỹ phẩm, thực phẩm chức năng chăm sóc, làm đẹp của Công ty TNHH Thiên nhiên TS VN, có dấu hiệu giả nguồn gốc xuất xứ…

“Lâu nay, hàng giả, hàng nhái được tiêu thụ công khai, nhưng việc tổ chức sản xuất thì diễn ra trong bóng tối nên những nỗ lực ngăn chặn vẫn chưa thể triệt để. Các giải pháp, chính sách của Nhà nước vẫn chỉ mới cắt ngọn vấn nạn, chưa đủ cách thức và sức nặng răn đe để loại trừ vấn nạn từ gốc rễ. Cho đến nay, vẫn chưa có bất kỳ một đánh giá nào thống kê đầy đủ về những thiệt hại do vấn nạn hàng giả, hàng nhái gây ra, nhưng chắc chắn, thiệt hại của chúng gây ra cho nền kinh tế là cực lớn”, một cán bộ ngành công an lên tiếng.

Nổi bật trong thời gian qua đó là những vụ buôn lậu, sản xuất, kinh doanh hàng giả, hàng kém chất lượng, hàng vi phạm SHTT trong lĩnh vực dược phẩm, mỹ phẩm và thực phẩm chức năng được phát hiện ngày càng nhiều, với phương thức hoạt động hết sức tinh vi. Loại tội phạm này, thường tổ chức sản xuất hàng giả ở nhiều nơi, mỗi nơi một khâu, sau đó chuyển đến nơi tập kết để lắp ráp hoàn chỉnh rồi đưa đến nơi tiêu thụ. Khi bị phát hiện ở một khâu, một công đoạn nào đó thì các đối tượng có thể nhanh chóng tẩu tán tang vật ở những khâu khác nhằm tiêu hủy chứng cứ.

Nhiều ý kiến cho rằng, hiện nay, hàng giả, hàng nhái có mặt ở rất nhiều phân khúc của thị trường, từ các cửa hàng tạp hóa trên các phiên chợ vùng sâu, vùng xa đến hè phố các đô thị; thậm chí len lỏi, trà trộn vào cả những siêu thị cao cấp ở những đô thị lớn. Sự nguy hiểm thể hiện ở chỗ, bên cạnh việc gây thiệt hại về kinh tế, nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe NTD.

Hiện nay, hầu hết các thương hiệu có uy tín, được NTD ưa chuộng, đều có nguy cơ bị làm giả, làm nhái hàng hóa bằng những thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn; thậm chí đến mức tem chống giả cũng bị làm giả!

NTD đang tiếp tay cho hàng giả

Thực tế, ngày càng nhiều NTD có tâm lý sính hàng ngoại, hàng xách tay; một số khác lại có tâm lý thích hàng rẻ, đẹp.

Ông Nguyễn Ngọc Luận, Chủ tịch CLB Kết nối doanh nhân Saigon - ASEAN cho rằng, chính NTD đang tiếp tay cho hàng giả, hàng nhái tồn tại, chiếm thị phần trên thị trường. Bởi ngoài một số người mua lầm phải hàng giả do khó phân biệt được đâu là hàng thật, đâu là hàng giả, thì vẫn có không ít người biết mình đang mua bán hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng, nhưng vẫn chấp nhận (?).

Mặt khác, vấn nạn này tồn tại còn do phần lớn NTD ngại động chạm đến việc kiện cáo. Thói quen sử dụng tình cảm, niềm tin trong giao dịch nên phần nhiều đều tiến hành giao mua bán hàng hóa theo kiểu thấy ưng là mặc cả, mặc cả xong là mua, mua xong là... xong. Khi đó, NTD hầu như không có bất kỳ giấy tờ, hóa đơn nào để chứng minh quá trình giao dịch. Nếu có đi chăng nữa thì họ cũng chỉ coi tờ hóa đơn là tờ giấy liệt kê hàng hóa, giá cả và thường bỏ đi trước khi sử dụng hàng hóa. Với thói quen này nên khi có chuyện gì, NTD cũng chỉ biết “rút kinh nghiệm” vì không có cơ sở, căn cứ gì để “bắt đền”!

Chưa dừng lại ở đó, với xuất phát điểm từ nền văn minh nông nghiệp và văn hóa trọng tính truyền thống nên người Việt Nam thường lấy “cái tình” để xử lý sự việc. Bởi vậy, ở nhiều nơi, ngay cả những người cầm cán cân công lý vẫn có tư tưởng thiên về khuyến khích các bên liên quan “tự dàn xếp” với nhau trong tình cảm...

Một nguyên nhân quan trọng nữa đó là do không ít người chỉ thấy lợi ích trước mắt, không thấy lợi ích lâu dài. Chỉ thấy lợi ích cá nhân, không thấy lợi ích tập thể, cộng đồng nên NTD rất dễ bị “bịt miệng” bằng vật chất, bằng vũ lực của những kẻ sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng.

Phần đông người dân hiểu và nắm luật rất hạn chế nên có muốn kiện, cũng không biết nên bắt đầu từ đâu, thủ tục thế nào; tâm lý ngại đi khiếu nại vì cho rằng mất công sức, chi phí, chưa chắc có kết quả.

Nhiều trường hợp, những DN bị xâm hại quyền lợi, bị làm giả thương hiệu, đã không thực sự chủ động phối hợp các cơ quan chức năng để đấu tranh hiệu quả…

Phan Chinh