Dự kiến đến hết năm 2025, quy mô GDP của Việt Nam sẽ đạt khoảng 510 tỷ USD, xếp thứ 32 thế giới và đứng thứ 4 trong ASEAN. Đây không chỉ là kết quả của quá trình phục hồi sau đại dịch Covid-19, mà còn phản ánh sức bật nội tại của nền kinh tế cùng hiệu quả điều hành chính sách vĩ mô trong những năm qua. Đáng chú ý, ngay cả trong giai đoạn khó khăn nhất, Việt Nam vẫn duy trì tăng trưởng dương, trong khi nhiều nền kinh tế lớn rơi vào suy thoái hoặc tăng trưởng âm kéo dài.

Bức tranh kinh tế năm 2025 tiếp tục cho thấy những tín hiệu tích cực. Ba quý đầu năm ghi nhận mức tăng trưởng cao và ổn định, tạo cơ sở để hướng tới mục tiêu tăng trưởng 8,3–8,5% cho cả năm. Kết quả này cho thấy nền kinh tế đang dần lấy lại “nhịp tăng trưởng cao” tương đương giai đoạn trước đại dịch, đồng thời mở ra dư địa cho các mục tiêu tham vọng hơn trong giai đoạn tiếp theo.
Tuy nhiên, để duy trì và nâng cao chất lượng tăng trưởng, Việt Nam cần một tư duy phát triển mới, mang tính tổng thể và dài hạn. Đó là tư duy đổi mới toàn diện từ mô hình tăng trưởng, phương thức lãnh đạo, cách thức huy động và phân bổ nguồn lực, cho tới việc mở rộng không gian phát triển dựa trên khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.
Trong giai đoạn 2026–2030, mục tiêu tăng trưởng hai con số được đặt ra như một yêu cầu mang tính chiến lược nhằm hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước. Đây cũng là tiền đề để Việt Nam đạt mục tiêu trở thành quốc gia đang phát triển có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao vào năm 2030, và tiến tới nước phát triển, thu nhập cao vào năm 2045.
Để hiện thực hóa mục tiêu đó, việc phát huy hiệu quả các trụ cột kinh tế chiến lược – bao gồm đầu tư, xuất khẩu, tiêu dùng trong nước, cùng các động lực mới như kinh tế số, kinh tế xanh và kinh tế sáng tạo – sẽ đóng vai trò then chốt. Chỉ khi tạo được những đột phá thực chất về thể chế, năng suất và năng lực cạnh tranh, Việt Nam mới có thể bước vào giai đoạn tăng trưởng “đột phá”, bền vững và tự chủ hơn trong thập niên tới.
Nam Sơn (t/h)























