THCL Tại Quảng Ninh, năm học 2012 – 2013, mô hình giáo dục VNEN được đưa vào thí điểm tại 16 trường tiểu học trên địa bàn tỉnh. Sau 3 năm triển khai, đã bộc lộ không ít bất cập, cản trở việc nhân rộng mô hình này...

Thứ trưởng Bộ GD&ĐT Nguyễn Vinh Hiển thăm một lớp học theo mô hình VNEN…
Mô hình mới, nhưng tầm với... chưa tới (!)
Trường học mới tại Việt Nam (gọi tắt là VNEN) xuất phát từ mô hình trường học mới (EN) được thực hiện tại Colombia. EN được chuyên gia giáo dục quốc tế từ các nước có nền giáo dục tiên tiến hỗ trợ, đạt được những thành công vang dội và mau chóng được nhân rộng khắp châu Mỹ Latinh.
Theo chương trình EN, vai trò chủ thể tích cực của học sinh trong tích lũy kiến thức được phát huy cao độ, chứ không thụ động như hình thức nghe giảng - đọc chép. Có thể khẳng định, mô hình VNEN đã đem đến những chuyển biến rõ rệt cho kết quả học tập của học sinh cấp tiểu học và THCS về cả lượng và chất trên cả 3 mặt: Đạt chuẩn kiến thức kỹ năng môn học, phát triển năng lực và hình thành phẩm chất.
Tại Quảng Ninh, năm học 2012 – 2013, mô hình giáo dục VNEN được đưa vào thí điểm tại 16 trường tiểu học trên địa bàn tỉnh. Đến hết năm học 2015 - 2016, có 66 trường tiểu học, 7 trường THCS trên địa bàn tỉnh áp dụng mô hình giáo dục này.
Theo ông Vũ Liên Oanh, Giám đốc Sở GD&ĐT, sau 3 năm thực hiện, mô hình VNEN tại Quảng Ninh đã đã được những kết quả đáng ghi nhận. Không khí học tập trong các lớp học được thay đổi, học sinh phấn khởi, tự tin, hào hứng học tập. Mục tiêu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục đã được thể hiện rất rõ nét trong tất cả các hoạt động của dự án. Sau mỗi đợt khảo sát đánh giá chất lượng từng năm học, học sinh của các trường thực hiện mô hình VNEN đều có những bước tiến rõ rệt về khả năng vận dụng kiến thức, khả năng giao tiếp, ứng xử và sự tự tin, hơn hẳn học sinh các trường ngoài dự án…
Tuy nhiên, qua quá trình thực tế triển khai, mô hình VNEN đã bộc lộ ra không ít khó khăn, bất cập với giáo dục Quảng Ninh. Nhiều cán bộ quản lý, giáo viên các nhà trường đều có chung nhận xét: Mô hình VNEN tuy ưu việt, có nhiều tác dụng tích cực, nhưng cũng bộc lộ nhiều bất cập. Có thể kể ra đây một số bất cập như sách giáo khoa dành cho đào tạo theo mô hình này không phù hợp, chưa khoa học, lớp học không đảm bảo về cơ sở vật chất, sỹ số…
Mô hình được thực hiện thí điểm ở cấp tiểu học và THCS, nhưng chưa có ở cấp học THPT nên có tình trạng “đứt đoạn” trong giáo dục. Ngoài cấp tiểu học đã bỏ các kỳ thi, học sinh THCS học theo mô hình VNEN vẫn phải tham gia các kỳ thi theo quy chuẩn của chương trình giáo dục đại trà.
Đội ngũ cán bộ, giáo viên đa phần được đào tạo theo chương trình dạy phổ thông nên khi tham gia giảng dạy theo mô hình VNEN, sự bỡ ngỡ, thiếu kỹ năng, không đúng phương pháp là điều không tránh khỏi... Đó là chưa kể đến những khó khăn, như: Sức ép về số lượng học sinh dẫn tới áp lực về cơ sở vật chất; diện tích phòng học không đủ chỗ cho học sinh tổ chức trò chơi khởi động; hầu hết các trường đều không có bàn ghế được thiết kế phù hợp theo hình thức dạy học VNEN, gây khó khăn cho việc chia nhóm, tổ chức hoạt động theo nhóm; ở các vùng sâu, vùng xa, vùng nông thôn, đa số học sinh sự giao tiếp còn nhút nhát, chưa tự giác trong việc hợp tác với các bạn trong nhóm và tham khảo ý kiến giáo viên…
Tạm dừng mô hình và những ý kiến trái chiều
Trước những thực tế đó, mới đây, trong buổi làm việc với Sở GD&ĐT, Bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch HĐND tỉnh Nguyễn Văn Đọc đã có ý kiến tạm ngừng nhân rộng mô hình VNEN trong năm học 2016 - 2017, chỉ giữ nguyên các trường, lớp đã thí điểm đào tạo như hiện nay. Đồng thời, giao Sở GD&ĐT tiếp tục nghiên cứu để có đánh giá, tổng kết những mặt được, chưa được; ghi nhận ý kiến của học sinh, phụ huynh và đội ngũ giáo viên về mô hình đào tạo này.
Mô hình áp dụng tại Việt Nam có cải biên so với nguyên gốc và nhận được nhiều ý kiến trái chiều. Một số chuyên gia cho rằng, với thực trạng học sinh đang bị “hao hụt” vốn kiến thức văn hóa thì đây là giải pháp tuyệt vời để góp phần bảo tồn nếp sống văn hóa đặc trưng của dân tộc Việt. Tuy nhiên, đại đa số giáo viên "than" gặp khó, không phù hợp với điều kiện sống, nhu cầu của số đông học sinh.
Một số phụ huynh có con mới vào tiểu học lại ủng hộ mô hình học này. Họ cho đây là mô hình học khoa học, tiên tiến, giúp con cái phát triển tư duy và khả năng ứng xử tốt. Họ trông đợi mô hình được đưa vào song hành với mô hình cũ bằng cách chọn lọc một vài lớp để áp dụng mô hình này - con cái có cơ hội lựa chọn cách học hiện đại.
PGS. TS. Hoàng Thị Tuyết (giảng viên Khoa Giáo dục Tiểu học - ĐH Sư phạm TP. HCM) nhận định: Có 4 điểm trong VNEN được thực hiện ở Việt Nam, khác so với mô hình trường học mới của Colombia (có thể là nguyên nhân chưa mang lại hiệu quả cao ở Việt Nam):
(1) Trường học mới của Colombia chỉ dành cho vùng nông thôn; còn ở Việt Nam, mô hình này lại được áp dụng ở cả thành phố, thị xã.
(2) Nội dung chương trình của trường học mới ở Colombia do giáo viên tự chủ ý tưởng, dựa trên tình hình nắm bắt kiến thức của học sinh mà họ trực tiếp giảng dạy. Trong khi Việt Nam, nội dung giảng dạy trực tiếp của giáo viên trên lớp trong dự án VNEN là những ý tưởng được hoạch định sẵn và cụ thể đến từng chi tiết bởi chuyên gia biên soạn tài liệu hướng dẫn học. Công việc của giáo viên dạy VNEN chủ yếu theo dõi, hỗ trợ, đánh giá việc thực hiện đúng nội dung dạy học đã được trình bày trong tài liệu này.
(3) Chương trình trường học mới, ngoài phần phát biểu mục tiêu, bao gồm 4 loại hoạt động: A- cơ bản; B- nghiên cứu trường hợp; C- thực nghiệm và D- hoạt động tự do. Ở Việt Nam, cơ hội để học sinh học tập và thể hiện theo nhịp độ phát triển riêng của cá nhân mỗi em là chưa nhiều, chưa xuyên suốt và nhất quán do các ngữ liệu và hoạt động/ bài tập/ câu hỏi được ấn định sẵn từ sách giáo khoa thống nhất toàn quốc và triển khai trong một cấu trúc tổ chức nhìn chung thuần nhất cố định.
(4) Trường học mới tăng cường mối quan hệ giữa nhà trường và các cộng đồng xã hội trên nhiều phương diện nhằm giúp học sinh nông thôn nghèo “nuôi lớn” động cơ học tập và đạt sự tiến bộ bền vững trong học tập. Ở Việt Nam, mô hình này, các hoạt động kết nối cụ thể sâu sắc kiểu như của trường học mới có vẻ vẫn còn chưa được thấy rõ…
Trong văn bản gửi chủ tịch các tỉnh tối 18/8, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT Phùng Xuân Nhạ khẳng định, mô hình VNEN không phù hợp với Việt Nam. Những ưu điểm và bất cập này đã được Bộ nghiêm túc rút kinh nghiệm. Từ đó, Bộ đề nghị các địa phương đang triển khai mô hình VNEN tiếp tục làm trên cơ sở tự nguyện. Với các cơ sở giáo dục không áp dụng VNEN thì có thể lựa chọn một số thành tố tích cực của mô hình để bổ sung vào phương thức giáo dục đang thực hiện, đảm bảo nguyên tắc lấy hoạt động học của học sinh làm trung tâm. Ngoài ra, các địa phương có thể áp dụng mô hình giáo dục tiên tiến khác phù hợp với điều kiện thực tiễn; tuyên truyền, tạo sự đồng thuận trong phụ huynh và dư luận xã hội.
Nhung Lê

Tại Quảng Ninh, năm học 2012 – 2013, mô hình giáo 



















