Lãi suất cho vay hấp dẫn
Thực tế những năm qua cho thấy, lúa, gạo luôn là lĩnh vực được ngành Ngân hàng quan tâm và triển khai đồng đều từ cơ chế chính sách đến tổ chức triển khai thực hiện. Có rất nhiều cơ chế chính sách được ngành Ngân hàng ban hành cho ngành lúa gạo nói riêng, lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói chung.Theo các doanh nghiệp kinh doanh lúa gạo thì Chính phủ đã có rất nhiều cơ chế tín dụng ưu đãi với ngành lúa gạo, lãi suất cho vay lĩnh vực này cũng đang ở mức hấp dẫn (trần lãi vay là 4,5%/năm).
Theo dữ liệu của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, đến cuối tháng 7/2021, dư nợ ngành lúa gạo đạt 144.657 tỷ đồng, tăng 11,33% so với cuối năm 2020. Trong đó, theo mục đích vay vốn dư nợ tín dụng cho vay trồng, sản xuất lúa đạt 34.819 tỷ đồng, chiếm 24,07%; dư nợ tín dụng phục vụ thu mua, tiêu thụ lúa gạo đạt 97.402 tỷ đồng, chiếm 67,33%, tăng 15,77% so với 2020; chế biến, bảo quản lúa gạo đạt 12.435 tỷ đồng, chiếm 8,6%. Riêng tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long, đến cuối tháng 7/2021, dư nợ ngành lúa gạo đạt 74.139 tỷ đồng, tăng 15,45%, chiếm 51,25% dư nợ lúa gạo cả nước.
Từ đầu năm 2021 tới nay, các tổ chức tín dụng tại các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long đã cấp hạn mức tín dụng khoảng 56.000 tỷ đồng cho các doanh nghiệp, thương nhân thu mua, tạm trữ lúa gạo và đã giải ngân với tổng doanh số lũy kế 93.000 tỷ đồng để thu mua gần 7,3 triệu tấn gạo. Dư nợ tín dụng thu mua, tiêu thụ đến cuối tháng 8/2021 ước đạt 51.500 tỷ đồng, tăng 22% so với năm 2020, chiếm 92% hạn mức được cấp. Nợ quá hạn ngành lúa gạo là 2.696 tỷ đồng, chiếm 1,86% dư nợ ngành lúa gạo. Như vậy, chất lượng tín dụng dưới mức cho phép 3% của ngành chức năng.
Tuy nhiên, do hiện nay nhiều tỉnh khu vực đồng bằng sông Cửu Long đang áp dụng giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, các doanh nghiệp ngành lúa gạo gặp khó khăn trong việc thu hoạch, lưu thông, sản xuất - chế biến và xuất khẩu gạo, cụ thể là các thương lái và phương tiện gặt đập liên hợp ngoài tỉnh bị hạn chế vào địa bàn, trong khi vụ lúa Hè thu đã và đang vào thu hoạch, người dân tạm dừng hoặc không mạnh dạn đầu tư vào sản xuất, trồng trọt.
Việc lưu thông hàng hóa của khách hàng gặp rất nhiều khó khăn: Các hộ nông dân thu hoạch thì không tiêu thụ được do không tiếp xúc được với thương lái mua; thiếu hụt nghiêm trọng tài xế xe tải/container, tài công ghe/sà lan vận chuyển gạo, lúa. Khó khăn nhất về thu mua lúa cho nông dân lúc này là khâu vận chuyển lúa từ ruộng về nhà máy.
Các địa phương áp dụng thời gian hiệu lực của xét nghiệm Covid-19 khác nhau, gây khó khăn cho các phương tiện vận chuyển (ví dụ như 4 tỉnh Đồng Tháp, An Giang, Kiên Giang và Cần Thơ thì tình hình dịch gần như nhau, nhưng Đồng Tháp, Kiên Giang và Cần Thơ cho phép hiệu lực trong 72 giờ trong khi An Giang là 24 giờ).
Các khách hàng là doanh nghiệp đang tổ chức sản xuất theo mô hình “3 tại chỗ” nên năng suất hoạt động bị giảm do thiếu hụt nguồn công nhân làm ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng. Một số nhà máy của doanh nghiệp phải tạm ngừng hoạt động do nằm trong vùng dịch. Do ảnh hưởng dịch Covid-19 nên tình hình xuất khẩu gạo rất khó khăn, các doanh nghiệp chỉ xuất khẩu cầm chừng vì không có nhiều đơn hàng.
Chuỗi sản xuất - cung ứng của nhiều doanh nghiệp bị đứt gãy; hàng hóa tồn kho với số lượng lớn, doanh nghiệp khó khăn trong việc tiếp cận khách hàng; giảm đơn hàng, giảm sản lượng, trì hoãn, phát sinh thêm chi phí phòng chống dịch Covid-19; nhiều trường hợp doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp kinh doanh lĩnh vực thu mua và chế biến nông sản dừng hoạt động do tình hình dịch. Giá lúa gạo nhìn chung đang thấp hơn so với cùng kỳ năm trước nhưng không chênh lệnh nhiều.
Để tháo gỡ khó khăn cho hoạt động thu mua lúa gạo tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đại diện một số ngân hàng kiến nghị, Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng có giải pháp giúp doanh nghiệp giải quyết nhanh hàng tồn kho, tăng cường kết nối chuỗi sản xuất - cung ứng, có các giải pháp giúp doanh nghiệp tiết giảm chi phí logistics... Các tổ chức tín dụng cũng cho biết, căn cứ báo cáo của các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long, hiện nay không có kiến nghị liên quan đến vốn tín dụng mà chỉ có kiến nghị liên quan đến khâu lưu thông hàng hóa và kiểm soát giãn cách xã hội. Đồng thời, xây dựng những trạm trung chuyển hàng hóa vừa đảm bảo phòng chống dịch, vừa đảm bảo lưu thông hàng hóa.
Mở rộng tăng hạn mức tín dụng cho thu mua lúa gạo
Với vai trò, ý nghĩa đóng góp quan trọng của ngành lúa gạo với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam, trong thời gian tới ngành Ngân hàng sẽ triển khai các giải pháp:
Một là, tiếp tục tập trung nguồn vốn để đáp ứng kịp thời nhu cầu vốn của thương nhân kinh doanh, đầu tư, chế biến thóc, gạo, người sản xuất lúa với thời hạn và lãi suất hợp lý theo Nghị định 107/2018/NĐ-CP ngày 15/8/2018 của Chính phủ về kinh doanh xuất khẩu gạo, Nghị định 55/2018/NĐ-CP ngày 15/6/2015, Nghị định 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp nông thôn.
Hai là, mở rộng, tăng hạn mức tín dụng cho các doanh nghiệp để đảm bảo đủ nguồn vốn thu mua, tạm trữ thóc, gạo cho người nông dân trong vụ Hè Thu, tới đây là vụ Thu Đông nhằm góp phần ổn định giá thóc gạo, đảm bảo lợi nhuận cho người trồng lúa. Tổ chức triển khai chỉ đạo của NHNN tại Công văn 5747/NHNN-TD ngày 10/8/2021, đảm bảo hiệu quả, thiết thực.
Ba là, thực hiện nghiêm túc quy định về trần lãi suất cho vay ngắn hạn bằng VNĐ đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, trong đó có ngành lúa gạo; tiết giảm mọi chi phí hoạt động không cần thiết để dành nguồn lực giảm lãi suất vay; thực hiện cam kết đồng thuận giảm lãi suất cho vay lên tới 1%/năm trong các tháng cuối năm như kế hoạch đã đăng ký với Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam theo chỉ đạo của NHNN tại Công văn 5901, 5902/NHNN-TD ngày 16/8/2021, riêng ngành lúa gạo xem xét giảm thêm 0,5% cho các khoản vay mới để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp, thương nhân thu mua tạm trữ thóc, gạo.
Bốn là, linh hoạt áp dụng các hình thức bảo đảm tiền vay, xem xét cho vay không có tài sản bảo đảm trên cơ sở quản lý dòng tiền.
Năm là, tiếp tục cải tiến quy trình, thủ tục cho vay, rút ngắn thời gian xét duyệt cho vay, đa dạng hóa các loại sản phẩm tín dụng để tạo thuận lợi cho khách hàng trong tiếp cận vốn tín dụng;
Sáu là, chủ động tiếp cận các doanh nghiệp, thương nhân lúa gạo và thỏa thuận các nội dung liên quan theo nguyên tắc tín dụng thương mại, phù hợp quy định pháp luật về cấp tín dụng.
Kết luận Hội nghị ông Đào Minh Tú, Phó Thống đốc thường trực giao các Vụ, Cục Ngân hàng Nhà nước nghiên cứu, hướng dẫn, xử lý các kiến nghị của các tổ chức tín dụng về các vấn đề, như: Tăng hạn mức tín dụng để đáp ứng nhu cầu của ngành lúa, gạo; Khẩn trương hoàn thiện việc sửa đổi Thông tư số 01/2020/TT-NHNN, 03/2021/TT-NHNN; Tài sản bảo đảm khoản vay cho các khoản vay thu mua lúa, gạo; Kéo dài thời hạn vay vốn khi khách hàng không trả trả nợ đúng hạn do thực hiện quy định về giãn cách, cách ly y tế trong thời gian có dịch Covid-19.
Tín dụng cho thu mua tạm trữ, chế biến, xuất khẩu của khu vực đồng bằng sông Cửu Long được xem là một trong những nhiệm vụ trọng tâm, không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế - xã hội tại đây mà còn đảm bảo an ninh lương thực.
Theo đó tốc độ tăng trưởng dư nợ tín dụng giai đoạn 2016 - 2020 ngành lúa gạo luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn (bình quân/năm lúa gạo tăng 24%, nông nghiệp, nông thôn tăng 18,16%).
Về dư nợ tín dụng nền kinh tế đến ngày 19/8/2021 đạt 9.829.695 tỷ đồng, tăng 6,93% so với cuối năm 2020 (cùng kỳ năm 2020 tăng 3,8%). Riêng dư nợ tín dụng tại các tỉnh vùng đồng bằng sông Cửu Long đạt 804.235 tỷ đồng, chiếm khoảng 8% dư nợ cả nước, tăng 7,75% so với cuối năm 2020. Bên cạnh đó, dư nợ tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn đến cuối tháng 7/2021, ước đạt 2.460.411 tỷ đồng, tăng 8,04% so với cuối năm 2020, chiếm khoảng 25% dư nợ chung toàn nền kinh tế (cùng kỳ năm 2020 tăng 3,71%; cuối năm 2020 tăng 11,52%). Dư nợ nông nghiệp, nông thôn khu vực đồng bằng sông Cửu Long đạt 456.705 tỷ đồng, tăng 8,77% so với cuối năm 2020, chiếm 18,56% dư nợ nông nghiệp, nông thôn cả nước.
Hưng Phúc
(Bài tuyên truyền thực hiện Nghị quyết 84/NQ-CP ngày 29/5/2020 của Chính phủ)