Trong không khí ồn ào, sôi động của một Hà thành cao sang, thơ mộng..., đó đây vẫn còn một Hà thành lam lũ, truân chuyên với bao nghề lao động nhọc nhằn, nhếch nhác của người nghèo. Một ngày cuối thu, tôi tìm đến họ và cảm nhận đôi điều về những cuộc sống bươn bả giữa lòng thành phố...


Nhu cầu còn lớn

Một thành phố có sức sống mãnh liệt, đi lên giữa thời kinh tế mở, hội nhập - như thế - không có lý do gì mà nghề cung chất đốt không phát triển như bao nghề “phục vụ” khác. Dẫu bếp điện, bếp ga, bếp từ... đã trở nên khá phổ biến trong nhiều gia đình - nhưng hiềm một nỗi, giá cả cứ “leo thang” theo thời gian, trong khi mức thu nhập của đại bộ phận người lao động vẫn “giậm chân tại chỗ”. Bởi vậy, không ít người vẫn “cầu” than tổ ong - một nghề đã có tên trong làng chất đốt Việt Nam. Người làm than tổ ong cũng vì thế không ngừng cung.

Chị Hương Mai, một chủ bán đồ ăn sáng ở khu tập thể Bắc Nghĩa Tân (Cầu Giấy) làm con tính: “Mỗi ngày tôi đốt hết 6 – 7 viên than (3.800 đồng/viên); tuần đều đặn phải gọi cỡ 50 viên. Nhà trên tầng chật chội, nhưng dù chật đến đâu thì cũng phải... nhường chỗ cho than nằm!”.

Những gia đình hạng bình dân, hoặc được coi là nghèo ở thành phố rơi vào hộ cán bộ, viên chức, công nhân, bán hàng quà vặt... còn phải khát... than tổ ong. Không chỉ các nhà tầng chệt, mà ở trên tầng cao, khu tập thể đông đúc dân cư cả nội, ngoại thành; những nhà làm hàng, gánh hàng ăn như bún, phở, bánh đa, bánh bao; một số cơ sở tắm nóng - lạnh... đều dùng than tổ ong, than cám. Anh Đức Tính, một người dân ở khu tập thể Nhà máy Thuốc lá Thăng Long cho biết, tại đây còn khá nhiều gia đình sử dụng bếp than. “Dùng bếp than tổ ong, mỗi tháng giảm được hơn một nửa số tiền so với dùng bếp điện hoặc bếp ga”, anh Tính bộc bạch.

Đen nhẻm cả ngày

Tôi tần ngần đứng xem đám thợ đóng than tổ ong ở một ngõ thuộc đường Lê Trọng Tấn (Hoàng Mai). Họ ai nấy quần đùi, áo cộc lỗ trỗ những đám rách đã ngả màu than. Những cánh tay chắc nịch, nổi gân guốc cũng trộn màu than cứ vung lên vung xuống đều đều. Bên cạnh đó, một cái “máy” làm than ọc ạch, rệu rạo (đoán chừng cũng đã có thâm niên với nghề); đống than trộn thì đang vợi dần. Xa hơn là núi than cám được che tạm bởi những chiếc cót mục, bao tải rách.

Thấy tôi cứ dán mắt vào những viên than ướt tròn trịa qua từng bàn tay nhào nặn, đưa đẩy thoăn thoắt và xếp xuống nền đường, cậu thợ trẻ nhất trong đám, toàn thân đen nhẻm như... ma lem ném... cái cười về phía khách, lên tiếng: “Dễ ợt mà sếp! Thư sinh như sếp cũng làm ngon, có khi còn nhanh hơn tụi em - nhưng mà không có sức thì cày được mấy bữa?”. Họ phá lên cười...

Lẽ dĩ nhiên, làm gì cũng đều cần có sức khoẻ. Những nghề như làm than tổ ong thì càng cần phải có sức khoẻ mới hòng bám trụ lâu dài.

- Tôi quê Kiến Xương (Thái Bình), lên ở với chị gái, tính chuyện kiếm nghề gì đó mưu sinh. Sau mấy mùa quẩn quanh với vài nghề không xong, tính đi tính lại, tôi thấy nghề làm than tổ ong tuy vất vả, nhếch nhác một chút nhưng còn nuôi nổi cái bụng mình. Anh Lê Bọc, chủ chính tâm sự.

- Anh bám nghề “nhếch nhác” lâu chưa?

- Hồi nào, quanh đây chỉ tinh ao với ao, những cái ao tù lâu đời lạnh lẽo..., bèo tây cao tới hàng mét, cỏ mọc thành rừng; đáy ao lắng đọng đủ thứ rác rưởi trên đời... Bù vào - bùn moi dưới đáy ao dẫu phải công phu nhặt... bẫn (rác và nhất là mảnh thuỷ tinh, kim loại) nhưng chứa đầy chất cháy. Bùn “ao thành tinh” mà đem ngào với “than Quảng Ninh” thì cứ là phải biết: cháy đượm, đỏ rực, lửa bốc ngùn ngụt! Bà con quanh đây người nọ mách người kia kéo đến mua kìn kìn, lắm khi làm không xuể.

- Nay thì ao, hồ, ruộng đều biến thành nhà, thành quán xá?

- Không còn “mỏ” khai thác, phải đi nơi xa, thậm chí phải mua bùn của đám chủ chuyên kinh doanh thì nỗi nhọc nhằn lại tăng thêm. Hơn 15 năm trước, khu này nhà cửa còn thưa thớt, đường đi lối lại rộng thênh thang; nay chỉ còn lại những ngõ, ngách nhỏ, nên việc chở than cám vào, rồi bùn, trấu..., chở sản phẩm (than tổ ong) đi bán vừa “cậy” sức mình, vừa phải thuê thêm cánh cửu vạn, thành thử tốn thêm sức, mất thêm tiền vả lại mất nhiều thì giờ.

Duyên nợ với nghề…

Những người làm than tổ ong thường chọn nơi có diện tích rộng là các bãi sông, đất trống bên hồ, ven ao để tiện việc lấy bùn, nước và chuyên chở. Thợ làm nghề này phần lớn là người tứ xứ, cánh cửu vạn sức vóc hơn người. Họ có thu nhập dù còn khiêm tốn nhưng khá ổn định: 2,5 - 3 triệu đồng/người/tháng (trừ các khoản ăn, uống và chi phí tằn tiện khác).

Anh Đoàn Xuân Phùng, chủ một cơ sở sản xuất than tổ ong ở đường Nguyễn Phong Sắc (Cầu Giấy) khi được hỏi đã dãi bày: “Thường ngày, lũ “đen nhẻm” bọn tôi có 10 - 12 thợ làm, chia thành các tốp, gồm tốp chuyên lo nguyên vật liệu (than cám), bùn, trấu, mùn cưa, tốp ngào quả than, tốp đóng than (tạo sản phẩm) và tốp chuyên chở hàng đưa đi các đại lý, nhà hàng, kể cả bán rong. Tuỳ vào công việc mà anh em chia... lương, trừ các khoản “trói phí”, còn lại người nhiều lĩnh 2,5 triệu đồng/tháng, người ít thì 1,5 triệu đồng”...

- Đêm đến, ngủ ở đâu?

- Kia kìa...

Chỗ ngủ của họ là cái lán rộng chừng hơn chục mét vuông, được quây tạm bợ bởi những tấm gỗ dán, cót ép, gạch vỡ, ni lông.  Chủ thợ bảo “anh em ở vậy đã trên 10 năm nay”.

Nếu không tính vài doanh nghiệp kết hợp đầu tư sắm máy móc trang thiết bị, mở xưởng sản xuất than tổ ong (có thời đưa quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhưng nay đã giải tán vợi do lãi thấp hoặc thua lỗ, do ô nhiễm môi trường...) thì hầu hết các tốp thợ làm than tổ ong đều rất thủ công, cực nhọc và mạnh ai nấy làm. Nơi nào, khu tập thể nào có nhiều “thượng đế” cầu hơn - ắt nơi đó mọc lên lắm cơ sở sản xuất than tổ ong hơn. Và cũng vậy, sản phẩm có chất lượng hay kém chất lượng lẫn lộn được đưa ra bán cho người tiêu dùng, nó không theo một công thức cố định nào mà chỉ dựa vào kinh nghiệm của từng cánh chủ.

Thực tế, nghề làm than tổ ong đã phần nào mang lại công ăn việc làm cho một bộ phận người lao động, cung cấp một phần chất đốt cho người tiêu dùng Thủ đô. Nhưng bên cạnh đó, nghề này cũng gây nên sự nhếch nhác, đặc biệt là ô nhiễm môi trường nơi thành thị, tại các đường phố - ví thử như việc xe thồ rơi rớt than tổ ong xuống lòng đường...

Phóng sự của Xuân Phong