Choang! Chị Hẹ vừa đặt mâm cơm xuống nền nhà thì cậu con chừng lên chín lên mười không biết từ xó xỉnh nào chui ra. Tay nó cầm sẵn bát với cái muôi cán rõ dài, chẳng may vấp ngã, cán muôi đập vỡ bát canh rau khoai lang bắn tung tóe ra mâm, văng khắp gian nhà nhỏ nền đất ẩm mốc, nhấp nhô...

Ảnh minh họa

- Thằng Bờm! Đứa chị đứng gần đó quát.

- Hu hu hu…

Thằng bé ôm mặt khóc rồi lặng lẽ tót ra phía sau chùa.

Chị Hẹ buồn rầu:

- Nó vẫn vậy đấy! Năm đứa con nhà này, đứa nào mà chẳng có tật… Nó là út, bị nặng nhất. Chín tuổi rồi nhưng có biết gì đâu. Rõ khổ!

Chị Hẹ rơm rớm nước mắt.

Lúc mới đặt chân vào làng, đã nghe những tiếng ơi ới gọi nhau vui như tết. Làng đang có hội. Trống rong cờ mở, các mợ các chị vận những bộ quần áo mới nhất, sáng nhất đi thành tốp thành hàng trên các ngõ xóm. Vui nhất là đám con gái. Năm nào làng cũng mở hội, rồi đình rồi đám. Năm nào các cô cũng được khoe mình khoe sắc. Ấy nhưng, họ vẫn cứ thấy mỗi năm lại thêm mới, như là “sự đổi đời tương lai” - nói cười râm ran.

Đối lập với khung cảnh tấp nập, huyên náo của những đám nhà giàu, số có chút “của ăn của để”, rảnh rỗi hay là cái sự vui thú của lũ trai gái làng trong những ngày trẩy hội làng kia…; nhiều nông dân chân chất, nghèo khó chẳng mấy khi “rời đít con trâu”, một nắng hai sương, tảo tần, chịu thương chịu khó cắm cúi nơi ruộng đồng - họ ít có cơ hội làm sang làm đẹp, làm gì có thời giờ vui thú cảnh thanh bình… Có lẽ, trên khắp các làng quê Việt Nam, đâu đâu cũng vậy. Hội - đình - đám - có chăng chỉ là một bộ phận nhỏ tham gia và sự thực thì họ có điều kiện hơn so với đại bộ phận những người nông dân.

- Có ai cấm bà con đi hội đâu. Vả, năm có tới 365 ngày, không nhẽ bà con không có những ngày rảnh, tham gia hội cho đông vui?

- Ôi dào! Ai hội cứ hội. Người nào, đầu tắt mặt tối thì cả đời chẳng bén mảng tới sân đình. Một bác nông dân lên tiếng.

Đám con gái đang nhún nhảy vui đùa gần đó bỗng phá lên cười…

Hà Công là một trong những thôn được công nhận “Làng văn hóa” sớm nhất của vùng quê quan họ Bắc Ninh. Là địa phương sớm được công nhận “làng văn hóa” thì ai cũng nghĩ “sẽ không còn long đong những phận đời?”… Người ta cứ nghĩ thế thôi. Đâu đó trong làng, vẫn còn những phận đời long đong, quanh năm tứ mùa chúi mắt chúi mũi vào công việc mà cuộc sống vẫn cơ hàn. Cái ăn còn chưa no, cái mặc chưa đủ ấm, nghĩ gì tới các cuộc vui?

Phía sau ngôi chùa có một gia đình sống cảnh tạm bợ, lặng lẽ âm thầm nhiều năm qua. Năm mẹ con chị Hẹ ở trong ngôi nhà cấp bốn từ năm 1990. Gọi là nhà, nhưng thực ra nó là cái trạm bơm được dựng vội, tường tróc từng mảng lớn. Mái ngói cũ rích phủ đầy rêu phong; rui, mè ọp ẹp lúc nào cũng chực bổ xuống đầu. Nền nhà đất mấp mô trở thành cái bẫy vấp ngã đối với người già, con trẻ. Hoàn cảnh gia đình chị Hẹ rất đỗi thương tâm. Suốt mấy chục năm ròng rã, mấy mẹ con có chỗ chui ra chui vào, sống nhờ vào cái nghề duy nhất: bán hàng rong vốn vỏn vẹn mấy trăm ngàn đồng.

Hằng ngày, chị Hẹ bươn bả tới những vùng sâu vùng xa mãi tận các huyện miền núi Lục Ngạn, Sơn Động của tỉnh Bắc Giang tìm mua cây nhân trần, cây cam thảo. Về nhà mấy mẹ con xúm lại, hý hoáy xao xao sấy sấy, đóng gói rồi chia nhau mỗi người vài gói mang ra chợ bán. Họ đầu tắt mặt tối, luôn chân luôn tay. Hôm nào bán trúng cũng chỉ được vài chục ngàn đồng bạc.

- Người ta mua là vì người ta thương cho hoàn cảnh ấy thôi. Ai hơi đâu đi mua của mấy người bệnh tật, ốm yếu!

- Giời ạ, mẹ con nhà họ bệnh tật, chứ sản phẩm họ làm ra có bệnh tật đâu mà các bà bảo.

- Chứ lại chả không chiếu cố à? Vậy tôi hỏi chị “trong cửa hàng cửa hiệu hẳn hoi, sản phẩm có nhãn mác, có địa chỉ hẳn hoi, giá cũng chẳng nhỉnh hơn là mấy, sao họ không vào đó mua?”.

- Thôi thôi thôi! Nói thế thì nói làm gì…

Tiền ăn hằng ngày đã phải tằn tiện chắt bóp đến khổ sở. Chị chắt bóp để nuôi các con, chị “bóp” mình để cả cái thân thể chị tiều tụy, như xác con ve.

- Người thế kia, ốm yếu lấy tiền đâu thuốc thang?

- Tôi có bệnh nặng thì tiền vay mượn chạy vạy, hết thì bấu chỗ nọ vá chỗ kia. Thi thoảng, người thân, bạn bè trợ giúp. Bệnh nhẹ, chỉ uống vài thứ thuốc nhì nhằng còn không thì kệ.

- Ông xã nhà chị đâu, trụ cột nhà chị đâu?

- Kia kìa!...

Chỉ tay về phía người đàn ông quắt queo ngồi chồm hỗm ở một góc giường, bà cụ Hồng, mẹ đẻ của chị Hẹ giọng đay nghiến:

- Nó bỏ nhà bỏ cửa từ khi cậu con út mới được sáu tháng tuổi, sang làng bên tằng tịu với con nhà người rồi đẻ con đẻ cái, chẳng bao giờ đoái hoài gì tới vợ con!

- Giờ anh ta làm gì?

- Có mà làm… sáu tấm! Ốm yếu trở thành người vô tích dạng thì bị con “trời đánh thánh vật” nó hắt hủi, mới vác mặt về ăn bám vợ con. Rõ là của nợ…

Người đàn ông nãy giờ vẫn im như thóc, chẳng nói chẳng rằng…

Một thân một mình chị Hẹ nuôi năm đứa con nhỏ từ suốt bao năm nay trong cảnh đói rách, thiếu thốn. Tình cảm mẹ con “tay đứt ruột xót” và những mong “ăn ngay nói thật, mọi tật mọi lành”. Chị ốm đau triền miên. Mỗi tháng tiêu hết vài chục nghìn đồng tiền thuốc - với chị đã là hạnh phúc. Chị bảo như thế là đã bớt tốn kém nhưng tính ra cũng thâm vào tiền ăn của các con mất bao nhiêu rồi nên áy náy lắm…

Thi thoảng, mấy cụ trên Hà Nội, đều là các thủ trưởng cũ của chị ở đơn vị bộ đội ngày trước, nghe tin biết hoàn cảnh gia đình chị đã gửi tiền, thuốc thang trợ giúp.

Chị khổ tâm, luôn day dứt trong lòng bởi cả năm đứa con đều bị nhiễm phải chất độc màu da cam. Hai đứa lớn may mắn học đến lớp 5. Còn lại ba đứa sau chẳng học hành gì. Chúng có biết gì đâu mà học? Mà chị làm gì có tiền cho chúng đi học? Đứa bé gái lớn 24 tuổi bị nhão dây chằng mắt. Vì nhà nghèo, chị phải nhờ cậy người quen đưa vào mãi trong Nam chữa trị. Xót xa, cháu bị người ta lừa đi đâu không biết. Cậu con út bệnh nặng nhất. Bụng cháu luôn chướng lên, đầu có nhiều bướu, chân tay quắt queo, chín tuổi mà hàm răng trên chưa mọc…

Gia sản trong gia đình không có thứ gì đáng giá, dù chỉ là vài chục nghìn đồng bạc. Hai cái giường ọp ẹp; không có tủ; bộ bàn ghế từ thời cổ la hy - ấy là đồ xin được. Quần áo cũ rách nát, vo thành đống, đựng trong cái hộp bìa cát tông dựng góc nhà. Xoong nồi, bát đĩa cũng chẳng có cái đựng, xếp vội trong xó xỉnh.

Gia đình chị Hẹ là gia đình vẻ vang! Trong gia đình, người tham gia cách mạng, người vào bộ đội. Bố chị là ông Nguyễn Văn Sủng - Chủ nhiệm Việt Minh đầu tiên của xã nhà vào năm 1945, Bí thư Liên chi bộ những năm sau đó. Người chú ruột là ông Nguyễn Văn Cung - cũng làm tới chức Chủ nhiệm HTX rồi Bí thư Đảng ủy xã. Chú ruột - ông Nguyễn Văn Công - liệt sỹ thời chống Pháp. Mẹ và ba người dì ruột đều tham gia du kích và Hội Phụ nữ xã…

Năm 1971, khi đang là cán bộ y tế xã, chị Hẹ tình nguyện vào bộ đội - đơn vị E 592 (Bộ đội Trường Sơn). Những năm 1971 - 1973, Trung đoàn làm nghĩa vụ quốc tế tại nước bạn Lào. Vùng chiến sự ác liệt Xa - va - khẹt, có ngày nào mà đơn vị không phải vật lộn với bom đạn, cứu chữa, đưa đón thương binh. Rồi sau đó chị đứng trong đội hình D 668 (E 592), hành quân về phục vụ chiến đấu tại chiến trường Hướng Hóa, Quảng Trị. Những lúc giữa cái sống và cái chết chỉ còn là trong tích tắc mà thấy đời vẫn vui, hăng say…

- Sau giải phóng, chị làm gì, ở đâu?

- Tôi ra quân trở về quê hương, tiếp tục công việc dở dang của mình.

- Làm y tá trạm xá xã?

- Vâng!

- Với chị khi đó, có đủ điều kiện để xin vào làm việc ở một chỗ tốt hơn?

- Tôi không nghĩ vậy vì đơn giản là tôi muốn được phục vụ thật nhiều cho bà con…

Buồn thay, chưa đầy ba năm sau, chị đành phải giã từ trạm xá do sức khỏe yếu - hậu quả của những năm tháng phải vật lộn trong những vùng có bom đạn cày xới.

Ngày chị về, không được cấp ruộng. Người ta bảo “ngày trước bà mẹ mắc nợ Hợp tác xã 80 kg thóc, sau hơn chục năm chưa trả được, giờ đã thành 8 tạ nên chị không được nhận ruộng”. Ngôi nhà cũ của gia đình chị trước đây đã chuyển sang cho người khác thừa tự. Người mẹ không có quyền giữ lại căn nhà đó. Năm mẹ con phải ở nhờ cái gian sau trạm xá. Khi trạm xá di rời, mẹ con chị được “ưu tiên” dọn đến cái trạm bơm sau chùa…

Truyện ngắn của Xuân Phong