Quảng Ninh là một trong những địa phương trọng điểm nuôi tôm của khu vực phía Bắc, với hai đối tượng chủ lực là tôm thẻ chân trắng và tôm sú. Việc xác định rõ các vùng trọng điểm nuôi tôm tại Tiên Yên, Đầm Hà… gắn với quy hoạch tỉnh, đã tạo nền tảng cho sản xuất tập trung, quy mô lớn. Các doanh nghiệp, hợp tác xã và hộ nuôi ngày càng chủ động đầu tư hệ thống nuôi khép kín, nuôi nhiều giai đoạn, kiểm soát chặt chẽ môi trường nước và dịch bệnh. Thực tế cho thấy, các mô hình nuôi tôm công nghệ cao giúp năng suất tăng từ 30-50% so với phương thức truyền thống, giảm thiểu rủi ro dịch bệnh và ô nhiễm môi trường.

Điển hình là Hợp tác xã Nuôi tôm công nghệ cao Cẩm Phả (xã Hải Hòa) với mô hình nuôi 3 giai đoạn, sử dụng nguồn giống được nhập từ Đầm Hà và tỉnh Khánh Hòa, bảo đảm an toàn sinh học. Hợp tác xã hiện có 12 ao nuôi, sản lượng bình quân đạt 35-40 tấn/tháng, tương đương 350-400 tấn/năm, giá bán khoảng 150.000 đồng/kg, cao gấp 10-15 lần so với nuôi quảng canh truyền thống. Năm 2026, Hợp tác xã dự kiến mở rộng thêm 50ha, đẩy mạnh ứng dụng tự động hóa trong cho ăn, giám sát môi trường nước bằng cảm biến nhằm giảm chi phí và gia tăng năng suất. Những mô hình nuôi tôm công nghệ cao như vậy không chỉ mang lại sản lượng ổn định mà còn mở ra hướng phát triển hiện đại, bền vững cho ngành tôm Quảng Ninh.
Một tín hiệu tích cực khác là diện tích tôm nuôi bị nhiễm bệnh trên toàn tỉnh trong năm 2025 giảm mạnh so với năm trước, chỉ còn hơn 35ha, bằng khoảng 41% so với năm 2024. Kết quả này phản ánh rõ hiệu quả của công tác quan trắc môi trường, giám sát dịch bệnh, cũng như việc tuân thủ nghiêm lịch thời vụ và quy trình kỹ thuật của người nuôi.
Năm 2025, sản lượng nuôi biển của Quảng Ninh đạt trên 62.000 tấn, tập trung tại các địa phương: Vân Đồn, Cẩm Phả, Đầm Hà, Hà An, Cái Chiên…Tính đến đầu tháng 12/2025, các địa phương đã giao khu vực biển cho 817 cá nhân; Sở Nông nghiệp và Môi trường cấp 50 giấy phép nuôi trồng thủy sản biển và tham mưu UBND tỉnh ban hành 44 quyết định giao biển cho các tổ chức, doanh nghiệp, hợp tác xã. Việc này tạo hành lang pháp lý vững chắc, giúp người dân, doanh nghiệp yên tâm đầu tư lâu dài, từng bước chấm dứt tình trạng nuôi tự phát, manh mún.
Cùng với việc giảm dần nuôi manh mún, cơ cấu đối tượng nuôi biển ngày càng đa dạng, tập trung vào các loài có giá trị kinh tế cao như cá song, cá chim vây vàng, cá giò, hàu, ngao, trai cấy ngọc. Nhiều mô hình nuôi biển công nghệ cao, nuôi kết hợp du lịch sinh thái hình thành và phát huy hiệu quả, vừa tạo giá trị kinh tế, góp phần bảo vệ môi trường, bảo tồn di sản và xây dựng sinh kế bền vững cho cộng đồng ngư dân ven biển.

Từ những kết quả đạt được trong năm 2025, ngành Thủy sản Quảng Ninh đặt mục tiêu năm 2026 đạt tổng sản lượng thủy sản nuôi trồng khoảng 120.300 tấn, trong đó sản lượng tôm nuôi đạt 36.000 tấn, sản lượng nuôi biển đạt 73.000 tấn. Đồng thời, tiếp tục rà soát, hoàn thiện quy hoạch, hình thành các vùng nuôi chuyên canh theo đối tượng, đồng thời thu hút đầu tư các dự án nuôi biển công nghiệp hiện đại, tổ chức sản xuất theo chuỗi giá trị, thích ứng với biến đổi khí hậu và đáp ứng các tiêu chuẩn chất lượng ngày càng cao của thị trường.
Tại Diễn đàn Phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam năm 2025 tổ chức tại Quảng Ninh, PGS.TS Nguyễn Hữu Dũng, Chủ tịch Hiệp hội Nuôi biển Việt Nam, nhấn mạnh: Chuyển sang nuôi biển công nghiệp, mở rộng ra vùng biển mở và xa bờ là con đường tất yếu. Tuy nhiên, điều cốt lõi không chỉ là thay đổi vật liệu hay hình thức lồng nuôi, mà là xây dựng mô hình tổ chức sản xuất mới - cụm công nghiệp nuôi biển. Đây được xem là bước “nhảy vọt”, tạo nền tảng hình thành ngành nuôi biển quy mô lớn, hiện đại, tích hợp với du lịch, năng lượng tái tạo và các lĩnh vực kinh tế biển khác, phù hợp với định hướng phát triển bền vững của Quảng Ninh trong giai đoạn tới.
Trần Trang (t/h)
























