“Khe hở” từ cơ chế tự công bố

Cụ thể, theo một số chuyên gia nhận định, dù Nghị định 15/2018 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật An toàn thực phẩm (ATTP), một số thực phẩm bảo vệ sức khỏe, thực phẩm dinh dưỡng dùng cho chế độ ăn đặc biệt, thực phẩm tăng cường vi chất dinh dưỡng… được áp dụng cơ chế hậu kiểm.

Hiện, cơ chế này được nhiều nước trên thế giới sử dụng, nhằm giúp doanh nghiệp giảm thủ tục hành chính, chi phí tuân thủ và thời gian. Tuy nhiên, đây vô tình cũng là kẽ hở cho các doanh nghiệp làm ăn gian dối, tuồn các sản phẩm giả, kém chất lượng ra thị trường. Do đó, các quy định cần được sửa đổi để bịt kẽ hở này.

Cơ quan điều tra kiểm đếm sản phẩm sữa bột giả bị thu giữ. Ảnh: CAND
Cơ quan điều tra kiểm đếm sản phẩm sữa bột giả bị thu giữ. Ảnh: CAND

Liên quan đến vụ án gần 600 nhãn hiệu sữa bị làm giả, vừa được cơ quan điều tra, Bộ Công an triệt phá, chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính) cho biết: Đây không chỉ là một vụ án kinh tế nghiêm trọng, mà còn cho thấy lỗ hổng trong quản lý nhà nước về ATTP và chống hàng giả. Chính sách kiểm tra chất lượng hàng hóa còn yếu, chủ yếu kiểm tra sau, không phòng ngừa sớm. Chế tài xử phạt nhẹ, thiếu răn đe, đặc biệt trên nền tảng thương mại điện tử vốn đang thiếu khung pháp lý và lực lượng chuyên trách.

Từ góc độ kinh tế học, hành vi này gây ra nhiều hệ lụy. Trước tiên, hàng giả làm méo mó cạnh tranh, tăng chi phí cho doanh nghiệp chân chính và thiệt hại cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó, tạo ra tổn thất xã hội, làm giảm hiệu quả nền kinh tế. Ngoài ra, xói mòn niềm tin thị trường – yếu tố quan trọng khi Việt Nam đang thúc đẩy phục hồi tiêu dùng nội địa.

Về mặt xã hội, sữa giả đe dọa sức khỏe người tiêu dùng, làm tăng gánh nặng lên hệ thống y tế. Ngân sách nhà nước sẽ phải chi trả hậu quả y tế – một chi phí gián tiếp nhưng không nhỏ. Điều này làm giảm hiệu quả chi tiêu công và ảnh hưởng tới các chương trình phúc lợi khác.

Thời gian tới, để ngăn chặn tận gốc tình trạng này, công tác quản lý cần tập trung vào các nhiệm vụ trọng yếu.

Chuyên gia kinh tế Ngô Trí Long
Chuyên gia kinh tế, PGS.TS Ngô Trí Long - nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá (Bộ Tài chính). Ảnh: Vân Hương

Thứ nhất, tăng cường hậu kiểm, truy xuất nguồn gốc hàng hóa không chỉ kiểm tra tại điểm bán, các lực lượng chức năng cần mở rộng kiểm tra theo chuỗi cung ứng – từ kho bãi, nơi đóng gói, gia công đến các kênh phân phối. Ứng dụng mã QR và blockchain để truy xuất nguồn gốc hàng hóa, đặc biệt với nhóm hàng nhạy cảm như thực phẩm, thuốc.

Thứ hai, siết chặt cấp phép và tiêu chuẩn hóa quản lý sản phẩm, quy định rõ ràng hơn về tiêu chuẩn dán nhãn, công bố chất lượng và hồ sơ sản phẩm. Đặc biệt, cần rà soát lại toàn bộ quy trình cấp phép lưu hành thực phẩm chức năng, mỹ phẩm và sữa dinh dưỡng - những mặt hàng dễ bị làm giả.

Thứ ba, ứng dụng công nghệ số trong giám sát thị trường: Xây dựng cơ sở dữ liệu tập trung về doanh nghiệp, mã sản phẩm, lô hàng - liên thông giữa các cơ quan như quản lý thị trường, hải quan, y tế và công an kinh tế, từ đó phát hiện sớm bất thường về nhập khẩu, lưu thông và phân phối.

Bên cạnh đó, tăng cường xử phạt nghiêm minh, công khai minh bạch những vụ việc như vụ sữa giả không thể chỉ dừng ở xử phạt hành chính mà cần khởi tố hình sự với hành vi gây nguy hiểm cho sức khỏe cộng đồng. Đồng thời, công khai danh tính tổ chức, cá nhân vi phạm để răn đe.

Luật sư Vi Văn Diện, Giám đốc Công ty Luật Thiên Minh. Ảnh Tuấn Ngọc
Luật sư Vi Văn Diện, Giám đốc Công ty Luật Thiên Minh. Ảnh Tuấn Ngọc

Nhận định dưới góc độ pháp lý, Luật sư Vi Văn Diện, Giám đốc Công ty Luật Thiên Minh cho hay: Hành lang pháp lý về phòng, chống hàng giả đã tương đối đầy đủ, song thực tiễn vẫn còn nhiều lỗ hổng. Từ Nghị định 98/2020/NĐ-CP với quy định cụ thể về xử phạt hành chính, đến Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi 2017) với các điều 192, 193, 194 về tội sản xuất và buôn bán hàng giả, cùng nhiều luật chuyên ngành như Luật An toàn thực phẩm, Luật Quảng cáo, Luật Thương mại... đều đã thiết lập khung pháp lý để kiểm soát chất lượng sản phẩm, ghi nhãn, công bố tiêu chuẩn và xử lý hành vi gian lận.

Tuy nhiên, trên thực tế, việc áp dụng các quy định này vẫn tồn tại không ít bất cập. Một trong những điểm đáng lo ngại là cơ chế tự công bố sản phẩm theo Nghị định 15/2018/NĐ-CP đang bị lạm dụng. Với nhiều nhóm thực phẩm chức năng, doanh nghiệp chỉ cần nộp hồ sơ là có thể đưa sản phẩm ra thị trường mà không trải qua thẩm định hay kiểm nghiệm độc lập.

“Nếu không có khâu hậu kiểm nghiêm túc, điều này dễ dẫn tới tình trạng hàng giả, hàng kém chất lượng được “hợp pháp hóa” bằng giấy tờ đầy đủ. Chế tài xử phạt hành chính hiện nay cũng chưa thực sự đủ sức răn đe. Mức phạt vài trăm triệu đồng là quá nhỏ so với lợi nhuận khổng lồ từ việc buôn bán hàng giả, vốn có thể lên đến hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ đồng mỗi năm”. Luật sư Diện cho biết.

Cần tính đến phương án quy về một mối

Bên cạnh đó, không ít ý kiến cho rằng, trách nhiệm trong vụ việc phát hiện gần 600 nhãn hiệu sữa giả không đơn thuần quy về một cá nhân, hay tổ chức duy nhất, mà đây là sự tổng hòa của trách nhiệm ở nhiều cấp độ khác nhau trong hệ thống quản lý.

Theo đó, để bịt lỗ hổng này, Bộ Y tế và Bộ Công Thương cần thiết phải xây dựng cơ chế giám sát chung, hoặc chuyển toàn bộ thẩm quyền quản lý các thực phẩm dinh dưỡng và thực phẩm chức năng cho Bộ Công Thương thống nhất quản lý, còn Bộ Y tế chỉ chịu trách nhiệm chuyên môn.

Đồng thời, cần tính đến phương án quy về một mối, tinh gọn và sáp nhập các quy trình liên quan đến quản lý chất lượng và ATTP nhằm tạo ra một hệ thống minh bạch, trách nhiệm và đủ sức răn đe, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người tiêu dùng.

Cụ thể, liên quan đến vụ án gần 600 nhãn hiệu sữa bị làm giả, chuyên gia Nguyễn Duy Thịnh, nguyên giảng viên Viện Công nghệ sinh học và Thực phẩm (Đại học Bách Khoa Hà Nội) cho rằng, đây là lỗ hổng trong chuỗi kiểm soát. Bộ Y tế là cơ quan có chuyên môn, Bộ Công thương có lực lượng quản lý thị trường, còn địa phương là đơn vị trực tiếp cấp phép và kiểm tra. Nếu cả ba bên không phối hợp chặt chẽ, không xây dựng hệ thống cảnh báo sớm, thì việc để lọt đường dây sữa giả hoạt động suốt thời gian dài là điều hoàn toàn dễ hiểu…

Tương tự, bà Nguyễn Thanh Hải, Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu của Quốc hội cũng đặt ra vấn đề hậu kiểm hiện nay chưa được thực hiện đầy đủ, nghiêm minh. Đồng thời, đề nghị trong báo cáo kết quả giám sát văn bản quy phạm pháp luật cần phân tích, bổ sung thêm về những lỗ hổng pháp luật, từ đó kiến nghị các cơ quan phải có hướng hoàn thiện, từ đó thông tin với cử tri và Nhân dân cả nước.

Bà Nguyễn Thanh Hải, Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu của Quốc hội. Ảnh: Phạm Đông
Bà Nguyễn Thanh Hải, Chủ nhiệm Ủy ban Công tác đại biểu của Quốc hội. Ảnh: Phạm Đông

Một số chuyên gia cũng cho rằng, cần xem xét, bổ sung yếu tố “sản xuất, buôn bán thực phẩm mục đích dành riêng cho nhóm yếu thế như trẻ em, phụ nữ có thai, người bệnh, người già" một cách thấu đáo, để tạo ra cơ chế bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương, ngay từ trong luật, như đã quy định đối với tội cố ý gây thương tích.

Liên quan đến việc công bố, thông tin trước báo chí, bà Phạm Khánh Phong Lan, Giám đốc Sở ATTP TP. Hồ Chí Minh cho rằng, vấn đề không hoàn toàn nằm ở thủ tục tự công bố hay phải đăng ký công bố. Mà mấu chốt là công tác hậu kiểm có thực chất, hiệu quả hay không? Khâu hậu kiểm giữ vai trò then chốt trong việc giám sát, quản lý hoạt động sản xuất, kinh doanh thực phẩm của doanh nghiệp. Do đó, giải pháp tốt nhất là hậu kiểm, thông qua cơ chế thanh, kiểm tra. Cơ quan chức năng phải làm tốt việc này, không thể trông chờ vào ý thức tự giác của doanh nghiệp khi có thể vì lợi ích mà họ nhắm mắt làm liều.

Cũng theo đề xuất của các chuyên gia, để tăng cường hiệu quả giám sát thực phẩm lưu thông trên thị trường, Luật ATTP sửa đổi cần khuyến khích, cho phép người dân được chủ động kiểm nghiệm thực phẩm.

Ngoài ra, cơ quan chức năng cần xem xét bổ sung tình tiết sử dụng mạng xã hội, sàn thương mại điện tử bên cạnh tình tiết có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp làm yếu tố định khung tăng nặng đối với tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực thực phẩm quy định tại Điều 193 và tội lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198 Bộ luật Hình sự.

Tuấn Ngọc