(TH&CL) Gói ghém hành trang, từ Hà Nội, chúng tôi đáp xe ngược Thái - về thăm Mỏ sắt Trại Cau (Đồng Hỷ, Thái Nguyên), mang theo những dòng suy nghĩ, để được hòa mình vào dòng chảy của một khai trường tròn nửa thế kỷ bền bỉ phấn đấu.

Khai trường mới đang được khai thác

Nhọc nhằn mà vinh quang

Hà Nội – Thái Nguyên, tuyến đường đi đã khá vất vả, nhưng vẫn chưa nhằm nhè gì so với đường vào Mỏ sắt Trại Cau.

Quả thực, từ TP. Thái Nguyên vào mỏ sắt, ngồi trên xe con, chúng tôi như đánh vật với cung đường dài chưa đầy 20 cây số. Tới nơi, một không khí tấp nập nhộn nhịp hiển hiện ngay trước mặt. Những tốp thợ vận quần áo xanh chàm, lấm đất, vào ra nườm nượp, vội vã. Họ đang trong giờ giao ca.

Gặp chúng tôi tại trụ sở, các anh Nguyễn Văn Quảng, Bí thư Đảng ủy, Mạc Đăng Niên, Giám đốc Mỏ niềm nở: “Các anh vào được trong này là quý lắm rồi!”.

Có lẽ, ở Mỏ sắt Trại Cau, còn có thứ “bỏng cháy” hơn mà người theo nghề khác như chúng tôi, khi đến đây, chứng kiến thì chỉ còn biết… tặc lưỡi.

Hãy khoan nói về mỏ sắt hôm nay, xin trở về dấu mốc của những năm về trước…

Đọc các cuốn trích ngang, lịch sử qua từng thời kỳ của Mỏ sắt Trại Cau, thấy ngồn ngộn những dòng viết về quá trình xây dựng, phát triển và trưởng thành; không ít trang chứa đầy gian khổ, mồ hôi và nước mắt của biết bao thế hệ cán bộ, công nhân, họ tâm huyết, gắn bó, cùng chung sức chung lòng làm nên một mái nhà chung vững bền và chan chứa tình người. Bất chợt tôi quay sang hỏi Giám đốc Niên: “Có tài liệu nào khái quát nhất về dòng chảy lịch sử của mỏ sắt?”. Anh Niên lắc đầu: “Dài lắm, có khái quát thì báo chí các anh cũng phải đưa thành chuyện sách - dài kỳ”.

Và khi đó, tôi chỉ còn cách “vẽ” lên vài nét chấm phá về từng thời kỳ “vừa sản xuất vừa chiến đấu”, “khôi phục sản xuất” và “đổi mới” của đơn vị.

“… 1964, năm đầu tiên thực hiện sản xuất, Mỏ đạt sản lượng 181.600 tấn quặng sạch; năm 1965, đạt 306.750 tấn. Năm 1965, giặc Mỹ với trên 1.600 lượt chiếc máy bay đã ném hàng vạn tấn bom hòng hủy diệt Khu Gang thép, trong đó có Mỏ sắt Trại Cau. Với khẩu hiệu “Tổ quốc cần, sẵn sàng đổi máu lấy thép”, cán bộ, chiến sỹ Mỏ đã thể hiện ý chí kiên cường bám trụ nhà máy, bám trụ công trường quên mình vì sự nghiệp gang thép”.

“… Sau ngày thống nhất đất nước, suốt 11 năm (1975 – 1985), do nhiều khó khăn mang lại, có những thời điểm sản xuất phải cầm chừng, song vượt qua thách thức, Đảng bộ Mỏ đã lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị hàng năm, góp phần cùng Công ty khôi phục nhà máy và tiếp tục sản xuất gang thép cho Tổ quốc”.

“… Thời kỳ đổi mới, chuyển từ cơ chế bao cấp sang hạch toán kinh doanh, đơn vị gặp nhiều khó khăn bỡ ngỡ, sản xuất chưa phát triển… Chính từ trong gian khó, bằng tư duy mới, cách nhìn mới, đơn vị đã từng bước kiện toàn bộ máy tổ chức, tinh giản biên chế, sắp xếp lại đội ngũ cán bộ, bố chí lực lượng lao động hợp lý… Nhờ đó, Mỏ đã phát triển theo hướng thuận lợi”...

Bí thư Đảng ủy Mỏ, Nguyễn Văn Quảng chia sẻ: “Từ chủ trương đề ra, bám sát định hướng của Công ty, bám sát thực tiễn, chúng tôi đã bứt phá và có thể nói, thoát ra khỏi tình trạng khó khăn nhất. Đây chính là điều kiện để cấp trên quan tâm hơn tới đơn vị, làm tiền đề phát triển cho các năm tiếp theo”.

Tương lai đang rộng mở

Giám đốc Mỏ cho biết: Ngay năm ngưỡng cửa của thế kỷ XXI, hòa chung với kết quả của toàn Công ty, Mỏ được đầu tư cải tạo, bổ sung dây chuyền công nghiệp tuyển quặng; nhiều thiết bị khai thác được sắm mới.

“Và tiếp tục tìm kiếm, khai thác mỏ?”, tôi hỏi.

Anh Niên chậm rãi: “Năm 2001, đơn vị được giao nhiệm vụ thiết kế khai thác Mỏ Hàm Chim, tổng đầu tư ban đầu trên 10 tỷ đồng. Về giải phóng mặt bằng, di dời dân, chúng tôi gặp những thuận lợi nhất định. Song, trở ngại là, đúng dịp này, nổi lên các điểm khai thác, chế biến trái phép, hoạt động quanh khu vực Trại Cau, gây nhiều bức xúc trong cán bộ, công nhân cũng như nhân dân trên địa bàn. Chính điều này đã làm tổn hao bao thời gian, công sức đối với chúng tôi, vì phải tham gia giải quyết nhiều vụ việc, vấn đề liên quan nhất là duy trì, xây dựng mối quan hệ với nhân dân địa phương, làm sạch môi trường”…

Đúng là có tiếp cận với cán bộ, công nhân mỏ mới thấy, sức chịu đựng của người lao động ở đây là không nhỏ. Biết bao chuyện xảy ra thường nhật. Với họ, công việc hằng ngày vô cùng vất vả, nặng nhọc, giữa trời nắng chang chang phơi mình trên những xe xúc, xe ủi, xe cẩu mà đào mà bới đất đá, chui xuống tận sâu dưới lòng đất hầm hập như chảo lửa, tối tăm; chịu ảnh hưởng ô nhiễm môi trường… Phức tạp nhất hiện nay, khiến người lao động trăn trở đó là hiện diện thêm nhiều đơn vị, doanh nghiệp tư nhân cùng “đào chung miếng đất” – suốt nửa thế kỷ qua đã có chủ (Mỏ sắt Trại Cau).

Ai đó nói rằng, càng có nhiều đơn vị, doanh nghiệp tập trung khai thác thì càng mang về nhiều sản lượng quặng? Điều đó không sai. Tuy nhiên, đằng sau nó – sẽ kéo theo bao vấn đề phức tạp, rối rắm, cạnh tranh (kể cả cạnh tranh không lành mạnh), vấn đề môi trường, di dời dân, rồi “mọc” lên các tệ nạn xã hội?

Cho dù thế nào thì, như lời tâm huyết của Bí thư Đảng bộ: “Thời gian trôi, người ta chứng kiến sự đổi thay của đơn vị chúng tôi. Hoạt động của Mỏ vẫn diễn ra sôi động, liên tục, nhộn nhịp; hết thảy mọi cán bộ, công nhân vẫn bám trụ, hăng say lao động như đã từng diễn ra suốt 50 năm bền bỉ phấn đấu và phát triển”…

50 năm qua, chặng đường dài với biết bao kỷ niệm vui buồn, khó khăn và thách thức, tập thể cán bộ, công nhân Mỏ sắt Trại Cau, lớp trước lớp sau đã không ngừng phấn đấu, nỗ lực lao tâm với công việc, chắt chiu từng “hạt vàng” mang về cho đất nước. Hàng vạn, hàng triệu tấn sắt thép được ra lò từ Công ty Gang thép Thái Nguyên (nay là Công ty CP Gang thép Thái Nguyên), chính là nhờ vào những tấn quặng xù xì, được đào xới lên từ trong lòng đất, qua bàn tay và khối óc, mồ hôi và công sức của biết bao thế hệ người thợ mỏ.

Với những nỗ lực không mệt mỏi, phát huy sức mạnh các nguồn lực, năm 2013, Mỏ sắt Trại Cau tiếp tục hoàn thành nhiệm vụ được giao, nộp đủ ngân sách nhà nước; khai thác mỏ mới; ổn định việc làm cho hơn 300 cán bộ, công nhân; mọi công tác khác được duy trì thường xuyên, góp phần quan trọng để người lao động yên tâm, gắn bó với công việc, hết lòng vì đơn vị, góp phần làm giàu cho Tổ quốc.

Ngày 16/12/1963, Mỏ sắt Trại Cau (thành viên của Công ty Gang thép Thái Nguyên) đã cho ra những tấn quặng đầu tiên trên dây chuyền sản xuất công nghiệp. Lễ cắt băng khánh thành Nhà máy Tuyển khoáng được tổ chức tại Máng quặng nguyên, đánh dấu toàn bộ các công trình xây dựng Mỏ sắt Trại Cau đã hoàn thành và đi vào sản xuất. Mỏ có nhiệm vụ chính là khai thác và chế biến quặng sắt, cung cấp cho nhà máy luyện gang của Công ty và hoạt động trong nhiều lĩnh vực khác.

Qua mỗi giai đoạn, từ xây dựng cơ bản, sản xuất, chiến đấu và bảo vệ sản xuất đến thời kỳ đổi mới, đều để lại những dấu ấn đậm nét trong lịch sử phát triển 50 năm xây dựng và trưởng thành của Mỏ.

Mỏ sắt Trại Cau đã được Đảng và Nhà nước tặng thưởng 6 huân chương lao động (trong đó có 1 huân chương lao động hạng hai và 5 huân chương lao động hạng ba); nhận nhiều bằng khen, giấy khen, cờ thi đua của Thủ tướng Chính phủ, của tỉnh Thái Nguyên và các bộ, ngành, đoàn thể Trung ương.

Ghi chép của Khương Phong Nha