Con số này không chỉ vượt xa kỷ lục của năm 2024 (62,4 tỷ USD) mà còn khẳng định đà tăng trưởng bền vững, góp phần quan trọng vào cán cân thương mại quốc gia. Riêng tháng 11/2025, kim ngạch xuất khẩu ước đạt 5,8 tỷ USD, dù giảm nhẹ 3,7% so với tháng trước nhưng vẫn tăng 8,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này phản ánh sự ổn định và khả năng thích ứng của ngành trước biến động thị trường.

Giá trị xuất khẩu các mặt hàng nông sản dẫn đầu với 34,24 tỷ USD, tăng 15%; sản phẩm chăn nuôi đạt 567,4 triệu USD, tăng 16,8%; thủy sản ghi nhận 10,38 tỷ USD, tăng 13,2%; và lâm sản đạt 16,61 tỷ USD, tăng 5,9%. Những con số này cho thấy sự đa dạng và sức bật của các nhóm hàng chủ lực.
Về nhập khẩu, tháng 11/2025 ước đạt 3,92 tỷ USD, giảm 3,2% so với tháng trước và giảm 2,9% so với cùng kỳ năm trước. Lũy kế 11 tháng, tổng kim ngạch nhập khẩu nông lâm thủy sản là 44,45 tỷ USD, tăng 10,1% so với cùng kỳ. Kết quả, cán cân thương mại tháng 11 thặng dư 1,88 tỷ USD, giảm 4,7% so tháng trước nhưng tăng mạnh 43,3% so cùng kỳ. Trong 11 tháng, thặng dư thương mại ngành ước đạt 19,55 tỷ USD, tăng 19% - một tín hiệu tích cực cho nền kinh tế.
Nổi bật trong bức tranh xuất khẩu là sự bứt phá của các mặt hàng nông sản như cà phê, rau quả, hạt điều và hạt tiêu. Cà phê dẫn dắt đà tăng với khối lượng 1,4 triệu tấn và giá trị 7,88 tỷ USD, tăng 14,1% về lượng và 59,7% về giá trị. Giá xuất khẩu bình quân đạt 5.667,6 USD/tấn, tăng 39,9%, nhờ nhu cầu toàn cầu tăng cao. Đức, Italy và Tây Ban Nha là ba thị trường lớn nhất, chiếm lần lượt 13,3%, 7,8% và 7,4%. Đặc biệt, xuất khẩu cà phê sang Mexico tăng vọt 26,1 lần, trong khi giảm 8,9% ở Indonesia.
Rau quả duy trì tăng trưởng ổn định với giá trị 7,91 tỷ USD, tăng 19,5%, chủ yếu nhờ nhu cầu từ Trung Quốc và mở rộng tại Hoa Kỳ. Hạt điều đạt 698,1 nghìn tấn và 4,76 tỷ USD, tăng gần 20% về giá trị dù lượng chỉ tăng nhẹ, nhờ giá quốc tế cải thiện. Hạt tiêu dù lượng giảm nhưng giá trị vẫn tăng 23%, đạt 1,5 tỷ USD sau 11 tháng, với giá xuất khẩu tăng mạnh nhất nhóm.
Những thành tựu này được hỗ trợ bởi giá quốc tế tăng và nhu cầu ổn định từ các thị trường lớn, tạo động lực cho cơ cấu xuất khẩu nông sản Việt Nam.

Tuy nhiên, không phải tất cả đều suôn sẻ. Một số mặt hàng như gạo, chè và cao su đang đối mặt với suy giảm. Gạo giảm mạnh nhất với 7,5 triệu tấn và 3,83 tỷ USD, giảm 11,5% về lượng và 27,7% về giá trị, do cạnh tranh gay gắt và biến động giá thế giới. Chè suy giảm đồng đều về lượng và giá trị, phản ánh nhu cầu chưa phục hồi ở thị trường truyền thống. Cao su đạt 1,7 triệu tấn và 2,89 tỷ USD, giảm gần 7% về lượng dù giá bình quân tăng nhẹ, do nhu cầu thu hẹp ở một số thị trường lớn.
Trước tình hình này, Bộ Nông nghiệp và Môi trường nhấn mạnh, việc đẩy mạnh phát triển thị trường nội địa và xuất khẩu, đặc biệt thực hiện hiệu quả kế hoạch thúc đẩy xuất khẩu nông, lâm, thủy sản năm 2025 nhằm đạt khoảng 70 tỷ USD. Đồng thời, ngành đang triển khai các biện pháp thích ứng với thuế quan mới từ Hoa Kỳ, bao gồm mở rộng thị trường, ứng dụng khoa học công nghệ, điều chỉnh chính sách, ngoại giao kinh tế, và tăng cường chuỗi liên kết ngành hàng. Các doanh nghiệp cũng được hỗ trợ mạnh mẽ để gia tăng xuất nhập khẩu, đặc biệt với đối tác Hoa Kỳ.
Với đà này, ngành nông, lâm, thủy sản đang góp phần quan trọng vào mục tiêu tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2025, đồng thời khẳng định vị thế trên bản đồ xuất khẩu toàn cầu.
L.T(t/h)























