Trong tháng 10, xuất khẩu nhóm nông sản chính ước đạt gần 17,4 tỷ USD, tăng 12,7%; lâm sản chính đạt khoảng 12,8 tỷ USD, tăng 22,3%; thủy sản đạt gần 6,9 tỷ USD, giảm 0,8%; chăn nuôi ước đạt 359 triệu USD, tăng 6,1%; nhóm đầu vào sản xuất khoảng 1,4 tỷ USD, tăng 22,3%.
Tính chung 10 tháng, nhiều sản phẩm, nhóm sản phẩm có giá trị xuất khẩu tăng, gồm: Cà phê, cao su, gạo, nhóm hàng rau quả, hồ tiêu, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn, sản phẩm chăn nuôi, tôm, sản phẩm gỗ, mây, tre, cói thảm, quế... Trong đó, cao su, hạt điều, sắn và sản phẩm từ sắn tăng cả khối lượng và giá trị xuất khẩu.
Giá xuất khẩu bình quân 10 tháng nhiều mặt hàng tăng, như cao su đạt 1.680 USD/ tấn (tăng 4,1%), chè đạt hơn 1.665 USD/tấn (tăng 28,7%) Giá cà phê cũng tăng 9,7%, gạo găng hơn 7,1%, hồ tiêu tăng hơn 71%, sắn hơn 13%...
Về thị trường xuất khẩu, giá trị xuất khẩu nông, lâm, thủy sản 10 tháng của Việt Nam tới các thị trường thuộc khu vực châu Á chiếm 42,8% thị phần, châu Mỹ 30%, châu Âu 11,4%, châu Phi 1,9%, châu Đại Dương 1,5%.
Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam, chiếm tới gần 28% thị phần. Nhóm hàng gỗ và sản phẩm gỗ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản của Việt Nam sang thị trường này.
Đứng thứ hai là thị trường Trung Quốc đạt gần 7,5 tỷ USD (chiếm 19,3% thị phần) với kim ngạch xuất khẩu nhóm rau quả chiếm tới 23,4% tỷ trọng kim ngạch XK nông, lâm, thủy sản.
Đứng thứ ba là thị trường Nhật Bản với giá trị XK đạt trên 2,6 tỷ USD (chiếm 6,8%) và XK nhóm sản phẩm gỗ lớn nhất, chiếm 43,4% giá trị XK nông, lâm, thủy sản...
Ở chiều ngược lại, kim ngạch nhập khẩu toàn ngành ước đạt hơn 35 tỷ USD, tăng 39%. Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn cho biết, giá trị nhập khẩu các mặt hàng nông sản chính ước đạt 22,5 tỷ USD, tăng 54%. Nhóm sản phẩm chăn nuôi đạt trên 2,9 tỷ USD, giảm 0,5%. Nhóm hàng thủy sản ước trên 1,6 tỷ USD, tăng 11,7%. Nhóm lâm sản chính khoảng 2,6 tỷ USD, tăng 26,5%. Nhóm đầu vào sản xuất gần 6 tỷ USD, tăng 31%.
Minh Đức