Tính riêng tháng 11/2020, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản ước đạt 3,72 tỷ USD, giảm 4,2% so với tháng 10/2020; trong đó, giá trị xuất khẩu nhóm nông sản và lâm sản chính tương đương tháng 10.
Cụ thể, nông sản đạt khoảng 1,6 tỷ USD; lâm sản chính trên 1,2 tỷ USD; thủy sản đạt 800 triệu USD, giảm gần 13% và chăn nuôi đạt 33 triệu USD, giảm 11,5%…
Tính chung 11 tháng của năm 2020, kim ngạch xuất khẩu nông, lâm, thủy sản đạt khoảng 37,42 tỷ USD, tăng 2,4% so với cùng kì năm 2019.
Giá trị xuất khẩu gạo đạt trên 2,8 tỷ USD
Trong đó, nhóm nông sản chính ước đạt gần 16,76 tỷ USD, giảm 0,5%; chăn nuôi ước đạt 297 triệu USD, giảm 18,5%; thủy sản ước đạt khoảng 7,75 tỷ USD, giảm 0,9%; lâm sản chính đạt trên 11,65 tỷ USD, tăng 15%.
Một số mặt hàng vẫn đạt giá trị xuất khẩu cao hơn so với cùng kì năm 2020 như gạo, rau, sắn, tôm, gỗ và sản phẩm gỗ, quế, mây tre.
Cụ thể, giá trị xuất khẩu gạo đạt trên 2,8 tỷ USD, tăng 10,4%; rau đạt 621 triệu USD, tăng 7,7%; sắn và sản phẩm sắn đạt 874 triệu USD, tăng 2,3%, xuất khẩu tôm thu về gần 3,4 tỉ USD, tăng 9,7%; quế đạt 222 triệu USD, tăng 37,2%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt khoảng 10,9 tỷ USD, tăng hơn 14%; mây, tre, cói thảm đạt 545 triệu USD, tăng hơn 26%.
Hiện Việt Nam đã có 8 nhóm, mặt hàng xuất khẩu trên 1 tỷ USD, trong đó có 7 nhóm, mặt hàng xuất khẩu trên 2 tỷ USD. Cụ thể là, cà phê 2,5 tỷ USD, gạo 2,8 tỷ USD, hạt điều đạt 2,9 tỷ USD, rau quả đạt 3,0 tỷ USD, tôm 3,4 tỷ USD, sản phẩm gỗ đạt 8,4 tỷ USD.
Những mặt hàng giảm nhiều, như hồ tiêu đạt 597 triệu USD, giảm 11,4%, quả trên 2,2 tỷ USD, giảm 18%, cá tra đạt trên 1,4 tỷ USD, giảm 22,2%.
Về thị trường xuất khẩu, tính chung 11 tháng, Mỹ tiếp tục là thị trường chiếm thị phần lớn nhất với kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 9,8 tỷ USD, tăng 22,3% so với cùng kì và chiếm khoảng 26,2% thị phần.
Tiếp đến là Trung Quốc ước đạt gần 9,2 tỷ USD, giảm 6,6%; thị trường EU ước đạt 3,44 tỷ USD, giảm 0,3%; các nước ASEAN đạt khoảng 3,43 tỷ USD, tăng 2,8%; Nhật Bản đạt 3,1 tỷ USD, giảm 1,5% so với cùng kì năm 2019.
Minh Đức