Phát biểu tại lễ phát động, GS. TS. Phạm Như Hiệp, GĐ Bệnh viện đã đánh giá cao những kết quả đạt được về công tác phòng chống kháng thuốc của các trung tâm, khoa, phòng trong toàn viện và mong muốn toàn thể CBVC cần nâng cao hơn nữa nhận thức và thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống kháng thuốc trong cộng đồng, trong y tế; cùng chung tay góp sức ngăn chặn sự lây lan của vi khuẩn kháng thuốc, giảm sự đề kháng của vi sinh vật gây bệnh … nhằm nâng cao chất lượng điều trị bệnh nhân tại Bệnh viện, góp phần giảm gánh nặng về kinh tế, xã hội do kháng thuốc gây ra đối với cộng đồng.
Sau lễ phát động, đại diện lãnh đạo các Trung tâm, khoa lâm sàng đã ký cam kết sử dụng kháng sinh có trách nhiệm, với các nội dung: Chỉ kê đơn kháng sinh khi thực sự cần thiết; Hướng dẫn cho người bệnh việc sử dụng kháng sinh; Thực hành tốt Kiểm soát nhiễm khuẩn và giám sát các phác đồ điều trị có kháng sinh…
Bác sĩ Hoàng Thị Lan Hương, PGĐ Bệnh viện Trung ương Huế cho biết, nhiều năm qua, với sự hỗ trợ của Cục Quản lý Khám chữa bệnh Bộ Y tế; sự hợp tác, hỗ trợ của các tổ chức Quốc tế như WHO, CDC, PATH, OUCRU… sự hoạt động hiệu quả của Ban Quản lý và sử dụng kháng sinh, Khoa kiểm soát nhiễm khuẩn, Khoa Vi sinh, Dược lâm sàng và sự nỗ lực của CBVC toàn viện đã mang lại một số kết quả đáng ghi nhận: Số lượng người bệnh mang vi khuẩn đa kháng thuốc giảm từ 10-15% hằng năm và chủ yếu các chủng đa kháng thuốc có mặt trong cộng đồng, hầu hết các bệnh nhân được phát hiện sớm ngay từ khi vào viện, tỷ lệ cho nuôi cấy vi khuẩn đúng chỉ định và thời điểm nhằm phát hiện sớm các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc tăng khoảng 20%, đặc biệt giảm tỷ lệ sử dụng kháng sinh đã đa đề kháng giảm 31% từ năm 2019 và tiến tới không còn tình trạng sử dụng kháng sinh đã kháng thuốc trong bệnh viện. Qua kết quả đánh giá cho thấy các chủng vi khuẩn đa kháng thuốc thường gặp như Acinetobacter baumannii, Klebsiella pneumoniae, Ecoli … giảm rõ rệt từ 10-30%.
Được biết, kháng thuốc ngày nay không chỉ của riêng quốc gia nào mà là vấn đề y tế toàn cầu, đặc biệt nổi trội ở các nước đang phát triển. Kháng thuốc và xu hướng gia tăng kháng thuốc đã và đang trở thành một nguy cơ lớn cho toàn thể nhân loại: là mối hiểm họa nhiều mặt đối với sự sống còn của loài người, đối với sức khỏe cộng đồng, đối với kinh tế - thương mại và sự phát triển bền vững của mỗi quốc gia; làm giảm hiệu quả của các phương pháp điều trị kinh điển.
Kháng thuốc là hiểm họa ngày càng lớn đối với con người và nền kinh tế Việt Nam do việc sử dụng kháng sinh ngày càng gia tăng, thiếu kiểm soát trong y tế cũng như trong chăn nuôi và càng đáng báo động hơn khi nó xâm nhập vào chuỗi thức ăn và môi trường sinh thái của chúng ta;
Đáng chú ý, tỉ lệ vi khuẩn gram âm đa đề kháng được ghi nhận tăng cao ngay cả ở những người khỏe mạnh trong cộng đồng. Việc sử dụng kháng sinh không hợp lý trong điều trị là một trong những nguyên nhân khiến cho tình hình đề kháng kháng sinh tại Việt Nam ngày càng gia tăng. Tổ chức Chống đề kháng Kháng Sinh Toàn Cầu (GARP) đã thực nghiên cứu và ghi nhận phần lớn kháng sinh được bán mà không có đơn chiếm 88% ở thành thị và 91% ở nông thôn. Nguyên nhân tự ý dùng kháng sinh chủ yếu để điều trị ho và sốt. Điều này dẫn đến tăng chi phí điều trị, tăng thời gian nằm viện, tỉ lệ tử vong, trở thành một tác động tiêu cực đối với ngành y tế và kinh tế Việt Nam.
Trong bối cảnh đại dịch do virus SARS-CoV-2 diễn biến phức tạp và khó lường như hiện nay, các vấn đề như quá tải y tế, không phân tầng nguy cơ hay không đánh giá dấu hiệu nhiễm khuẩn của người bệnh khiến tình trạng lạm dụng kháng sinh tăng lên và làm tốc độ kháng kháng sinh xảy ra nhanh hơn.
Tại Việt Nam các kế hoạch hành động quốc gia về chống kháng thuốc đã được xây dựng và thực hiện từ năm 2013 nhưng cần thúc đẩy mạnh hơn, hoạt động hiệu quả hơn trong giai đoạn này. Gần đây nhất, Bộ Y tế của Việt Nam đã ban hành Quyết định số 5631/QĐ-BYT ngày 31/12/2020 về việc hướng dẫn thực hiện quản lý sử dụng kháng sinh trong Bệnh viện. Quyết định này đã đề ra các chiến lược và nhiệm vụ cốt lõi với mục tiêu đảm bảo hiệu quả điều trị, an toàn cho người bệnh, giảm khả năng xuất hiện đề kháng của vi sinh vật gây bệnh, giảm chi phí nhưng không ảnh hưởng đến chất lượng điều trị, đồng thời thúc đẩy chính sách sử dụng kháng sinh hợp lý, an toàn và hiệu quả trong điều trị bệnh.
Minh Tích